THẤT BẠI trong khâu chuẩn bị là chuẩn bị cho một THẤT BẠI!

Thứ Ba, 29 tháng 6, 2021

Sự thật về "cậu đồng" hoài Linh đang giấu diếm (kỳ 3)

(ĐQT)-

Dù rất xót xa nhưng nhìn thẳng vào sự thật, để thấy rằng mê tín dị đoan, mua thần bán thánh hiện nay diễn ra ra rả hàng ngày, và không thể kiểm soát. Không chỉ có những kẻ đem thần thánh ra bán, mà có không ít người coi thần thánh là tấm lá chắn, cho trò ma mị. Người mẫu Trang Trần bao lần livestream chửi tục tiễu là thế, cuối cùng đỗ thừa “mình có vong nhập, người ta cứ dựa trên mình nên tính mình thất thường, có lúc này lúc kia” để ngụy biện cho việc vong nhập vong chửi, chứ nào phải Trang chửi.

Nhà thờ Tổ của Hoài Linh không chỉ là nơi để đàn em nghệ sĩ trong showbiz nhóm họp, mà còn là “thiên đường” phù phiếm cho trò ma mị. Sự ma mị không những thể hiện ở những buổi lên đồng của Hoài Linh, có cả những trò “linh tinh tình phộc”, mà còn ẩn chứa trong căn phòng “bí mật” đầy trầm hương của Linh – nó được hé lộ một phần trong chính clip do Đàm Vĩnh Hưng tung lên không gian mạng để khoe mẽ.

Những khối trầm sánh nguyên bản to kếch xù được làm vật trang trí, nhiều khối dùng để đúc tượng, làm bàn ghế, nhưng chủ nhân nó không phải sử dụng để làm đẹp, hay để thể hiện đẳng cấp sưu tầm theo ý nghĩ thông thường, mà cái thú chơi trầm của Hoài Linh phục vụ cho mục đích khác.

Râm rang tin đồn trong dân gian, các vị pháp sư ngày xưa thường lấy hương thơm của trầm để loại bỏ ám khí, khí độc, dùng cho thuật bùa chú và sử dụng bột trầm hương để ướp xác mong vong hồn được về cõi lành. Riêng Hoài Linh thì anh em thân hữu trong giới showbiz rỉ tai nói với nhau: “Anh Bốn sử dụng trầm để nuôi ngải”. Và nó cũng là một trong những công cụ để Hoài Linh coi bói, làm bùa chú, huyễn hoặc, chi phối những người hoạt động giới showbiz.

Thời điểm nghệ sĩ Mai Phương chết chưa được 49 ngày, nghệ sĩ Hồng Vân xuất hiện trên livestream cứ nói mãi câu chuyện ma mị mơ gặp Mai Phương và cho biết, “tìm gặp ngay anh Hoài Linh để anh nói chuyện với hương hồn của em Mai Phương xem hiện giờ em như thế nào”. Mỗi clip như thế này, Hồng Vân thu về cả triệu lượt người xem, chưa kể hàng nghìn lượt theo dõi. Riêng Hoài Linh thì số người tìm đến anh chữa vong cũng nhiều hơn.

Điều đặc biệt, Hoài Linh không chỉ chữa vong nhập ở giới showbiz, mà người bình thường, đặc biệt là trẻ em, trẻ vị thành niên cũng chữa như “làm phước”. Hoài Linh chữa cũng rất thú vị, chỉ thông qua “vài cú” vuốt vuốt, xoa xoa vai, nắn tay, sờ trán – tài nghệ còn hơn cả vị thần y nào đó đang “nằm yên”.

Chuyện thánh thần, vong nhập được Hoài Linh và người thân cận tận dụng triệt để thực hiện các chiêu trò ma mảnh. Không phải ngẫu nhiên mà Đàm Vĩnh Hưng tự tin thách thức dư luận, hành xử giang hồ, tuyên bố “không sợ ai, Đàm Vĩnh Hưng là vùng đất cấm”. Người ta đồn rằng, một phần cũng bởi cái thứ bùa ngải vô hình ở “nhà thờ Tổ” của Hoài Linh đã giúp Đàm Vĩnh Hưng tin rằng muốn diệt ai thì diệt. Anh hại tất những ai không vừa ý, kể cả ca sĩ Phương Thanh – người bạn thân giúp anh có mặt trong các show diễn sáng giá, hot nhất một thời. Chính Phương Thanh gặp Đàm Vĩnh Hưng nói thẳng “tôi biết tôi bị bùa, ngải là do bạn và mẹ bạn chơi tôi”. Sự việc vỡ lẽ, cả showbiz càng thêm nhốn nháo, thậm chí, một nghệ sĩ lao động chân chính với nghề từng thốt lên: “Gặp thẳng Đàm thì né ra, không biết tắt thở lúc nào, mà có khi được vạ thì má đã sưng”.

Trong giới showbiz, bùa ngải là cái thứ mà hàng ngày được nhiều nghệ sĩ và cả cái giới showbiz ra sức tuyên truyền, gieo rắc nỗi ám ảnh trong tư tưởng của không ít người. Nó cuốn con người ta vào vòng ma mị cuộc sống, làm hao mòn tinh thần và kéo con người ta thụt lùi phía sau.

Đến đây thì chúng ta cần nghiêm túc đặt lại câu hỏi: Hoài Linh đang làm gì? Đóng góp gì cho nền văn hóa nghệ thuật nước nhà, hay sau tất cả là mục đích hướng tới phá hoại, làm lũng đoạn nền văn hóa, tư tưởng của một quốc gia, gieo rắc tà thuật để nó chi phối dân tộc?

Cái phanh không làm xe đi nhanh hơn, nhưng nhờ nó mà chúng ta dám đi nhanh hơn. Tương tự như vậy, văn hóa không phải là thành tố quan trọng nhất giúp kinh tế đất nước phát triển nhưng nó là nền tảng, yếu tố quan trọng bậc nhất để nuôi dưỡng cho đất nước trường tồn qua năm tháng, xây dựng nên dáng hình xứ sở.

Bao giờ cũng vậy, muốn phá hoại bất kỳ quốc gia nào hay muốn làm sụp đổ một thể chế, người ta hay nhắm vào phá hoại tư tưởng và làm lũng đoạn nền văn hóa, những giá trị văn hiến có truyền thống lâu đời của quốc gia đó. Chuỗi hành vi của Hoài Linh khi cố ý hầu đồng cách tân, buôn thần bán thánh, chữa bệnh tâm linh, dùng bùa ngải không chỉ “tiền ông đút túi” mà nguy cấp hơn, nó làm đảo ngược giá trị đạo đức, ngày qua ngày nó sẽ phá vỡ, làm mai một dần đi giá trị văn hóa truyền thống được ông cha ta gìn giữ lâu đời. Giống như nước chảy xuyên qua đá không phải là một sức mạnh, mà là một quá trình thời gian lâu dài. Thành trì bị phá vỡ đôi khi từ những lỗ mọi, mạch nước ngầm nhỏ nhất.

Lúc sinh thời, để giữ gìn di sản văn hóa, Giáo sư Trần Văn Khê đã gọi nghệ sĩ nhân dân Kim Cương bằng em và căn dặn: “Em phải nhớ, nền văn hóa nào cũng có gốc gác, quê hương. Nghĩa là, học cái hay, cái giỏi của nước người, nhưng đừng bao giờ quên tính dân tộc trong người mình”. Và điều đó được kỳ nữ Kim Cương khắc cốt ghi tâm. Trong một lần giao lưu, bà đã nói rằng: “Như cái răng, cái tóc là gốc con người, văn hóa là cội nguồn của mỗi quốc gia, mất văn hóa đồng nghĩa mất nước”. Điều này trong bối cảnh hiện nay, nền văn hóa đang chịu nhiều sự tác động và giao lưu từ bên ngoài, thì càng đáng báo động và cảnh tỉnh.

Thực hiện: Dương Thị Hải Yến
Đồ họa: M.N

Sự thật về "cậu đồng" hoài Linh đang giấu diếm (kỳ 2)

(ĐQT)-


Hầu đồng của ngày xưa thiêng về yếu tố nhân văn, giáo dục con người sống thiện, không trọng vật chất, thì ngày hôm nay, hầu đồng bị nhiều kẻ buôn thần bán thánh làm biến dạng, lời văn được sáng tạo thêm kiểu đẩy đưa “mơi tiền”, trục lợi. Đặc biệt là từ khi tín ngưỡng thờ Mẫu được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể, thì người hầu đồng bất chính sử dụng nó như “lệnh bài” thông quan, danh chính ngôn thuận để hoạt động.

Chính vì hầu đồng có nhiều cơ hội “hái” ra tiền, hiện nay lại chưa được kiểm soát chặt chẽ, Hoài Linh đã “đánh hơi” và anh xọc chân vào, lấn sân sang lĩnh vực này như một điều tất yếu.

Hoài Linh mở ra gánh đồng, tự thiết kế và tự làm chủ lễ, anh luôn đặt tiền đặt lên hàng đầu, từ hình thức đến nội dung, nó đối lập hoàn toàn với những gánh đồng truyền thống. Với lý luận “tốt lễ dễ kêu”, Hoài Linh chỉ nhận lên đồng với tiền bỏ túi hậu hĩnh, có khi lên cả tỷ đồng, thấp nhất cũng ngoài 100 triệu.

Hoài Linh cũng tự đặt ra cho mình sự khác biệt trong gánh đồng anh đảm nhiệm, thay vì hầu đồng truyền thống là tùy tâm biện lễ, không hoành tráng, đồ sộ từ lễ vật, vàng mã đến trang phục, thì hầu đồng của Hoài Linh cái gì cũng phải to, phải lớn, lễ vật phải nhiều, đặc biệt tiền phát lộc không còn là “bạc lẻ” gọi là tượng trưng, mà mệnh giá tiền phải lớn. Lộc không còn được phát tôn nghiêm như hầu đồng truyền thống, qua tay Hoài Linh sẽ là “cậu đồng” tung tiền, ném tiền – những tờ polime xào xạc bay lên không trung, cảnh tượng không khác gì rải vàng mã, mặc dù đang diễn ra với danh nghĩa nghi lễ văn hóa.

Trong vai “cậu đồng” Hoài Linh ra giá thế nào thì người đặt lễ nghe theo răm rấp. Ai thắc mắc hoặc xin làm lễ be bé tầm một trăm triệu đồng, dù chỉ qua điện thoại nhưng “cậu đồng” vẫn nhập được về Hoài Linh chèo kéo được: “Cậu về cậu phát lộc tiền lớn thì thăng quan tiến chức, làm được việc lớn”. Nghe lời “cậu đồng” Hoài Linh phán không ít thương nhân đã bỏ ra số tiền bạc tỷ cho mỗi gánh đồng diễn ra trong vài giờ đồng hồ. Đút tiền tỷ vào túi quá dễ dàng, thu nhập cao gấp cả chục lần so với đi diễn hài, nên khi đụng show, anh từ chối hết các sự kiện của showbiz, đó cũng là chuyện dễ hiểu! Cũng không ngạc nhiên khi có giai đoạn anh xem đi hầu đồng là cái nghề nhàn hạ để kiếm sống.

Khi mật độ hầu đồng của Hoài Linh diễn ra càng nhiều ở phía Bắc, nhận được nhiều đơn đặt hàng, anh cũng tự đặt mình lên tầm cao mới, tự cho mình là bậc thần, bậc thánh, thậm chí, với danh nghĩa “hầu đồng”, Hoài Linh bỏ ngoài tai chỉ đạo của Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch “Chỉ tổ chức hầu đồng ở những nơi có điện thờ Mẫu hoặc di tích thờ Mẫu”. Hoài Linh không cần xin phép ai, tự mở ra gánh đồng thu về bạc tỷ ngay tại chính nhà mình – nơi anh đặt cho cái tên thật kêu “nhà thờ Tổ”, và lên đồng theo cách mà anh muốn.

Có phải thời buổi bây giờ quá đảo điên, đến thánh thần mà người ta cũng dám nhân danh, rồi đem ra ngã giá, bán cho bằng được?

Giáo sư Ngô Đức Thịnh, một nhà nghiên cứu khả kính, có nhiều đóng góp trong việc làm sáng tỏ giá trị của di sản và hành động thực tiễn nhằm phục hồi di sản, đã phải thốt lên rằng: “Tôi rất buồn phải nói rằng, 80% nghi lễ này hiện nay là biến tướng. Biến tướng nghiêm trọng. Hoàn toàn “vật chất hóa” từ đầu đến cuối”.

Điều đáng báo động hơn là, Hoài Linh không chỉ lên đồng tại nhà thờ Mẫu, tại “nhà thờ tổ” của anh, mà gánh đồng biến tướng đó còn được anh tam sao thất bảng bê lên sân khấu hài kịch. Chứng kiến Hoài Linh và các nghệ sĩ hài đứng vai trò cung văn – hầu đồng, ca hát với trang phục diêm dúa, vũ đoàn đông đảo, bao kín sân chầu, Giáo sư Trần Quang Hải, con trai trưởng của cố Giáo sư Trần Văn Khê nẫu ruột: “Tôi liên tưởng đến một màn nhạc kịch, làm mất đi không gian đúng chất của hát chầu văn và nghi lễ chầu văn của người Việt. Sự biến tướng này phải dừng lại, trả lại hát chầu văn tính chất nghiêm túc của nó”.

Giáo sư Trần Quang Hải cũng phát lên lời cảnh báo: “Không thể chấp nhận, nếu cứ để sự biến tướng này phát triển, nó trở thành công cụ cho vài cá nhân lạm dụng, làm giàu lên từ sân chầu, đồng thời khiến cho nhiều người dân đặt hết tất cả tài sản, tiền của cho việc theo lời phán truyền mà đi tìm danh vọng”. Chua xót hơn là người ta còn giễu cợt đưa hầu đồng trở thành vị trí số một trong so sánh: “Thứ nhất ngồi đồng, thứ nhì lấy chồng quan”.


Sự thật đang bị "Cậu đồng" Hoàn Linh giấu diếm (Kỳ 1)





Phong tục thờ Mẫu (Thánh Mẫu) là một trong những tín ngưỡng dân gian lâu đời nhất ở Việt Nam, ra đời ở một số các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Loại hình nghệ thuật này có từ thế kỷ XV – trước cả khi Trung Quốc xâm lược nước ta.

Nghi lễ chính của thờ Mẫu là hầu đồng – đó là sự kết hợp những yếu tố rất đặc sắc của âm nhạc, không gian có cộng đồng bao quanh, cùng vũ đạo, diễn xướng đậm tính nghệ thuật sân khấu. Để phục vụ cho nghi lễ quan trọng này, người ta đã sáng tạo ra một hình thức lễ nhạc gọi là hát văn (hát chầu văn). Thông qua các vị đồng nam, đồng nữ, khi có vị thần, thánh nhập vào, lúc đó các ông đồng, bà đồng không còn là mình nữa mà hóa thân của một vị thần nào đó nhập vào họ, để giáo dục, răng dạy điều hay lẽ phải, ban lộc phúc lành cho con cháu. Với những ý nghĩa nhân văn sâu sắc như vậy, UNESCO công nhận tín ngưỡng này là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Có thể nói, người hầu đồng là nhân tố đặc biệt – người giữ hồn văn hóa, giữ gìn giá trị truyền thống tốt đẹp của ông cha, giúp ích cho cuộc sống nhiều gia đình, nên được đề cao và kính trọng. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà lắm kẻ muốn lấy hầu đồng, giả vờ “lên đồng” để làm công cụ trục lợi bất chính.

Góc khuất này đã được thiền sư Thích Nhất Hạnh khắc họa rõ nét trong tác phẩm “Cậu Đồng” lấy bối cảnh năm 1927, trong gia đình của ông Phán. Vì sùng bái thánh thần, ông Phán đã rước một cậu Đồng vào nhà để mọi người học hỏi theo… đức hạnh của cậu. Dần dần cậu Đồng lấn át cả ông Phán, tự cho mình quyền làm chủ cả gia đình. Và chính vợ con ông Phán đã quyết tâm vạch mặt sự ranh ma, láu cá của cậu Đồng…

Đạo diễn Trần Minh Ngọc chia sẻ: “Kịch thời cổ điển nhưng xét về tính thời sự thì đến hôm nay vẫn có những vấn đề còn nóng bởi sự lừa lọc, mê tín vẫn tồn tại. Và sự u mê của con người chính là kẽ hở cho những kẻ cơ hội lợi dụng, lộng hành”.


Thứ Hai, 28 tháng 6, 2021

NGƯỜI LÁI XE CHỞ THI HÀI BÁC HỒ

(ĐQT)-Ông tham gia chở thi hài Bác Hồ sáu lần. Lần thứ nhất, đưa Bác từ Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (Bệnh viện 108) lên căn cứ K9 (Đá Chông, Ba Vì, Hà Nội).



Lần cuối cùng, đưa Bác từ K9 về Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Quảng trường Ba Đình. Ông bảo: "Việc di chuyển thi hài Bác tuyệt đối bí mật. Phải tập luyện rất kỹ lưỡng... Từ sau những lần được trực tiếp lái xe chở thi hài Bác, làm việc gì tôi cũng nghĩ đến Bác, nghĩ đến vinh dự đặc biệt ấy để phấn đấu hoàn thành với kết quả tốt nhất".
Tôi gặp ông Hoàng Đình Thinh (80 tuổi) trong một nhóm CCB Văn phòng Tổng cục Hậu cần (TCHC), tại gia đình ông Bùi Ngọc Anh, đồng đội cũ của cả nhóm, ở Nam Định. Ông Thinh cho biết, ông tham gia chở thi hài Bác Hồ sáu lần, trong đó ba lần ông trực tiếp cầm lái, ba lần ông ngồi ngay cạnh lái chính. Lần thứ nhất, vào mùa đông năm 1969, đưa Bác từ Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (Bệnh viện 108) lên căn cứ K9 (Đá Chông, Ba Vì, Hà Tây - nay là Hà Nội). Lần thứ hai, ngay sau sự kiện vụ tập kích của quân Mỹ ở ngoại ô thị xã Sơn Tây rạng sáng ngày 21-11-1970, đưa Bác từ K9 trở lại Bệnh viện 108. Lần thứ ba, sau "đại hồng thủy" Đồng bằng sông Hồng tháng 8-1971, đưa Bác từ Bệnh viện 108 trở lại K9. Lần thứ tư, vào tháng 7-1972, đưa Bác từ K9 qua sông Đà, đến căn cứ H21 ở xã Cự Thắng, huyện Thanh Sơn, Phú Thọ. Lần thứ năm, sau ngày Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết (27-1-1973), đêm 8-2-1973, đưa Bác rời H21 trở lại K9. Lần thứ sáu, ngày 18-7-1975, đưa Bác từ K9 về Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Sau lần cuối cùng này, ông trở lại Đội xe 29, làm Trưởng ban xe đến năm 1989 thì nghỉ hưu. Theo đề nghị của mọi người, ông Thinh tường thuật lần ông lái xe chuyển thi hài Bác đầu tiên. Đó là đưa Người từ Bệnh viện 108 lên K9, mùa đông năm 1969. "Ban đầu tôi không biết mình sẽ thực hiện nhiệm vụ gì, chỉ được trên yêu cầu tập luyện, chuyên tâm lái xe đi từ Hà Nội lên K9 bảo đảm đúng thời gian. Sau này, khi đã rõ nhiệm vụ tôi mới hiểu, vì chưa có phương án bảo đảm nhiệt độ giữ thi hài Bác trong xe nên phải di chuyển trong thời gian quy định" - ông Thinh kể. Suốt nhiều tháng liền, ban ngày ông Thinh vẫn đến đơn vị làm việc bình thường, tối đến thì tập luyện cho nhiệm vụ đặc biệt. Cứ khoảng 21 giờ, tổ tập dượt cùng xe kéo chiếc linh cữu (giống hệt chiếc linh cữu sẽ đặt thi hài Bác để đi sơ tán) và xe chở người hộ tống đã được chuẩn bị kỹ, tập kết tại cổng căn nhà bảo quản thi hài Bác ở Bệnh viện 108. Đúng 22 giờ xuất phát, lên Đá Chông - Ba Vì. Người nào việc ấy. Trong linh cữu, Trung úy Vũ Quốc Bình - cán bộ phòng bảo vệ TCHC (khi nghỉ hưu là trung tá, ở khu tập thể Học viện Quân y, quận Hà Đông, Hà Nội) chú ý quan sát chiếc cốc thủy tinh bên trong có cái thìa sắt nhỏ, được đặt chính giữa sàn linh cữu; căn cứ vào sự va chạm giữa cốc và thìa trong hành trình, báo cáo đầy đủ tình trạng chuyển động của linh cữu, về cường độ, tầm, hướng xóc, lắc, nảy... tại các điểm tiếp xúc giữa xe đặt linh cữu và mặt đường để đồng chí Kinh Chi ghi lại. Có lúc ông áp cả má và lỗ tai xuống đáy linh cữu lạnh buốt để nhận biết thật cụ thể độ xóc của xe. Khi không thấy ông phát tín hiệu, đồng chí Kinh Chi lại hỏi: “Đoạn này thế nào?”. “Lắc, nhưng lắc sang phía nào?”… Đêm về, toàn tổ chụm đầu nghiên cứu cách thức xử lý đường xóc, tập trung hiệu chỉnh kỹ thuật xe, nhất là về độ nhún; tìm đủ loại lò xo, bổ sung phù hợp vào chỗ tiếp xúc giữa cầu xe và nhíp xe... Hơn hai tháng ròng “đi, ghi, sửa”. Khi các đồng hồ báo số đo tiêu chuẩn kỹ thuật vận chuyển bảo đảm tuyệt đối an toàn, cũng là thời điểm cuộc hành trình lịch sử bắt đầu. Ông Thinh bồi hồi nhớ lại: "Vào khoảng 23 giờ, ngày 23-12-1969, chiếc linh cữu chính thức, bên trong đặt thi hài Bác được tổ công tác đặc biệt cùng một số đồng chí cán bộ cao cấp và các bác sĩ đưa từ Bệnh viện 108 đi K9. Đã từng mong đợi giờ phút này đến cháy bỏng tâm can, vậy mà chúng tôi vẫn không nén nổi xúc động. Ai cũng như nín thở, tập trung hết trí lực vào công việc. Bác về tới K9 trước khi trời sáng, không chậm phút nào so với kế hoạch. Bác nằm như trước lúc khởi hành, không hề suy chuyển… Những giọt nước mắt của thành viên tổ công tác trào ra, nóng hổi. Mỗi người được Ban bảo quản thi hài Bác tặng một tấm ảnh ghi hình Bác trong linh cữu, chụp tại K9"… Người kể chuyện và những người nghe đều rất xúc động. Lặng đi một lúc, ông Thinh nói như tâm sự: "Từ sau những lần được trực tiếp lái xe chở thi hài Bác, trên mọi cương vị công tác cũng như khi đã về đời thường, làm việc gì tôi cũng nghĩ đến Bác, nghĩ đến vinh dự đặc biệt ấy. Tôi kể cho con cháu nghe và dạy chúng phải tu dưỡng thành người tốt để xứng đáng với sự tin cậy mà Đảng, quân đội đã dành cho tôi”. Bài và ảnh: PHẠM XƯỞNG (NGUỒN: QĐND) Ông Hoàng Đình Thinh (2017)

Chủ Nhật, 27 tháng 6, 2021

Thứ Bảy, 26 tháng 6, 2021

Kostas Saratidis - Nguyễn Văn Lập: Một người lính da trắng của Bác Hồ

(ĐQT)-Kostas Saratidis, tên tiếng Việt là Nguyễn Văn Lập, người nước ngoài duy nhất được phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND, chứng nhân lịch sử, một người lính da trắng của Bác Hồ.
Bà con trong cộng đồng người Việt ở Thủ đô Athens gọi một người Hy Lạp với cái tên thân mật là “bác Tháng 2/1946, chàng thanh niên Hy Lạp Kostas Sarantidis có mặt trong đội quân viễn chinh của thực dân Pháp đổ bộ lên Sài Gòn. Anh nghe người Pháp nói lính lê dương Pháp sang Đông Dương để  "giải phóng" các xứ ở đây, chống phát xít Nhật. Nhưng sau đó anh nhanh chóng nhận ra tất cả những gì người Pháp nói chỉ là chém gió, những gì họ làm đó là tàn sát và xâm lược.

Sau này, ông nhớ lại:

Tuy mới 18 tuổi đời, chưa hiểu nhiều về cuộc sống và chính trị, nhưng với truyền thống yêu tự do của người dân Hy Lạp đã từng trải qua 400 năm dưới ách thống trị của quân Thổ Nhĩ Kỳ, sau nhiều đêm thức trắng, tôi quyết định đi theo Việt Minh, dù cũng chưa hiểu rõ Việt Minh là thế nào...”.

Thời gian đầu chiến sĩ “mắt xanh mũi lõ” Nguyễn Văn Lập được giao nhiệm vụ làm công tác địch vận tại Quảng Nam - Đà Nẵng. Đến cuối năm 1946, chiến sĩ Lập đã lôi kéo được tới 40 lính lê dương khác gia nhập đội quân cách mạng. Sau đó Lập được phiên vào biên chế Tiểu đội 3, Đại đội 39 do ông Đàm Quang Trung thời đó làm Đại đội trưởng. Chiến sĩ Lập đã chiến đấu dũng cảm như một người lính Cụ Hồ thực thụ trong suốt gần “9 năm làm một Điện Biên”.



Hòa bình lập lại tại miền Bắc, năm 1956 ông xuất ngũ rồi đi làm phiên dịch tiếng Đức ở nhà máy in Tiến Bộ. Thỉnh thoảng ông Lập còn được hãng phim truyện mời đi đóng phim. Năm 1958, ông kết hôn với một cô gái Hà Nội, người được ông mô tả là "cực xinh", sinh được bốn người con, một trai ba gái, tất cả đều lấy tên Việt Nam là Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Thị Bạch Tuyết, Nguyễn Thị Bạch Nga và Nguyễn Thị Tự Do.

Hà Nội thời chiến tranh và bao cấp đã tôi luyện chàng trai người Hy Lạp trở thành một người Việt thực thụ, một người chồng người cha tận tụy cần mẫn với gia đình. Năm 1965, ông cùng vợ con trở về Hy Lạp qua con đường Sứ quán Hy Lạp tại Mátxcơva.

Cuộc sống bên Hy Lạp của ông cũng vất vả không kém, ông bảo : “Tôi đã mang vợ nước ngoài về thì không bao giờ bắt vợ đi làm. Tôi quyết tâm dù phải vất vả 18 thậm chí 24 tiếng mỗi ngày cũng phải làm để nuôi vợ con. Tôi suốt đời hy sinh cho… vợ con”. Về Hy Lạp ông làm nghề lái xe tải hạng nặng nhờ có bằng lái xe ở VN. Từ khi trở về, Nguyễn Văn Lập thường xuyên theo dõi tình hình chiến sự VN qua đài Trung Quốc phát bằng tiếng Pháp.

"Thời điểm giải phóng miền Nam bác có vui mừng ?"  -  ông đáp “Mừng là thế nào, xúc động đến rụng rời chân tay đi ấy chứ

Viết sẵn di chúc trước khi sang Việt Nam

Cuối tháng 8/2013, Kostas Saratidis - Nguyễn Văn Lập đáp chuyến bay từ Thủ đô Athens (Hy Lạp) sang Hà Nội dự lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân do Nhà nước Việt Nam trao tặng. Sang Việt Nam, Nguyễn Văn Lập như được về lại nhà mình, ông thấy khỏe ra nhiều. Ông cười bảo, lần này mới là lần thứ tám, ông sẽ tiếp tục đến Việt Nam và phấn đấu có tới 10 lần trở lại mảnh đất này. Cô con gái Bạch Tuyết đi cùng ba tuy bập bẹ chút ít tiếng Việt cũng kịp “tiết lộ” : “Gia đình cháu và bác sĩ không ai đồng ý để ba sang đợt này, nhưng ba cháu quyết tâm lắm, ba đã viết sẵn di chúc và bảo: Nếu có chết thì cũng nằm lại quê hương thứ hai!”. 

Nói tới 8 chuyến đi trở lại Việt Nam, tôi tò mò hỏi rằng, với mức lương hưu ít ỏi của mình, ông lấy đâu ra tiền để mua vé máy bay? Ông cười khà khà rồi nháy mắt kể: Mỗi sáng, vợ ông phát cho ông 3 euro để đi uống cà phê, ông đã “trốn” không uống mà để dành những đồng tiền ấy để mua vé.

Ông còn kể rằng lần nào trước khi sang Việt Nam, ông cũng viết di chúc để lại, dặn dò vợ con là nếu chẳng may có mệnh hệ gì thì dứt khoát không đưa ông về Hy Lạp mà hãy chôn cất ông ở Việt Nam, vì với ông, Việt Nam cũng chính là Tổ quốc, là quê hương như đất nước Hy Lạp mà ông đang sinh sống.

Có một chi tiết ấn tượng về ông, đó là khi được giới thiệu lên phát biểu, Kostas Sarantidis luôn kính cẩn cúi đầu chào trước tượng Bác, rồi bước đến bục phát biểu. “Tôi thích được gọi là Nguyễn Văn Lập hơn là Kostas Sarantidis. Bởi cái tên này gắn với những kỷ niệm không thể nào quên với nước Việt Nam của cụ Hồ. Các bạn Việt Nam đã giúp tôi hiểu thế nào là độc lập tự do”

Mỗi lần về Việt Nam, những đồng đội cũ chào đón ông không chỉ bằng tình đồng chí mà còn bằng tình anh em khiến ông thấy vô cùng ấm áp. Ông lại cùng các đồng đội cũ đi thăm và tặng quà, hỗ trợ tiền cho người dân Quảng Ngãi bị lụt bão, giúp các bệnh nhi ở Đà Nẵng, Hà Nội mổ tim từ tiền bán sách Tại sao tôi về với Việt Minh do ông viết. Để giúp đỡ các nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam, năm 2009, ông đã vận động thành lập Hội Hữu nghị Việt Nam - Hy Lạp do ông làm chủ tịch để quyên góp gây quỹ.

Hiện nay gia đình ông có 8 cháu nội ngoại, sinh sống ở thủ đô Athens và các thành phố khác. Yêu và gắn bó với Việt Nam, Kostas Lập không chỉ đặt tên cho con mà đến cháu cũng lấy tên Việt (Nguyễn Phục Sinh, Nguyễn Hồ Minh…), thậm chí hòm thư báo trước cổng nhà trên đường phố Rodos ở thành phố Athens ông cũng ghi cả 2 cái tên Việt Nam và Hy Lạp: Kostas Sarantidis Nguyễn Văn Lập.

Một lần khi PV hỏi ông về vấn đề biển đảo (Trung Quốc). Ông nói:  "Tôi bực mình lắm. Tôi không ngờ. Anh em mất ý nghĩa anh em, tình đống chí mất ý nghĩa tình đồng chí. Tôi ở xa, vẫn hy vọng TQ là 1 nước cộng sản, VN thì thế, nước XHCN như thế. Thực ra tôi biết từ lâu rồi, những cái hành động của TQ, tôi ko có gì lạ. Từ Bác Hồ năm 46, rồi hiệp định Geneva, rồi bài học vừa rồi mấy năm về trước, rồi Campuchia, vv... Đến cái bước này là tôi ko ngờ ..."


Thứ Năm, 24 tháng 6, 2021

CHÂN DUNG MỘT ĐẠI TƯỚNG ANH HÙNG

Đại tướng Obaturov - người sau khi biết Trung Quốc tấn công Việt Nam vào tháng 2/1979 đã nhanh chóng thành lập đoàn gồm 20 tướng lĩnh cấp cao khác do mình đứng đầu và bay đến Hà Nội sát cánh cùng nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc.

Ông nổi tiếng là người có tư duy chiến thuật cao, kinh nghiệm xông pha trận mạc, có bản lĩnh,biệt danh là "cuốn bách khoa sống". Hay tin Việt Nam bị Trung Quốc tấn công, ông đã thành lập đoàn chuyên gia quân sự để hỗ trợ ta, trong khi chiến sự đang diễn ra ác liệt, dù phía ta có can ngăn nhưng Đại tướng Obaturov vẫn đích thân trực tiếp đi thị sát tình hình tại Lạng Sơn (trong lần đi thị sát này đoàn xe của ông suýt trúng pháo của Trung Quốc). Trở về, Đại tướng Obaturov đưa ra nhận định tình hình và lập một bản báo cáo gửi về Liên Xô, trong đó ghi rõ phải viện trợ cho Việt Nam vũ khí nào? phương tiện gì để chúng ta đánh chặn được quân bành trướng. Trong thời gian giúp ta đánh đuổi Trung Quốc, có một người trong đoàn chuyên gia quân sự hi sinh, đó là Thiếu tướng Malykh. Sau cuộc chiến tranh biên giới đó, Đại tướng Obaturov còn ở lại Việt Nam thêm 3 năm nữa nhằm giúp Việt Nam nâng cao sức mạnh quân sự rồi mới trở về nước.

Thứ Hai, 14 tháng 6, 2021

Trách ai vô tình

(ĐQT)-

Bạn tình ơi ! Dẫu gì cũng xa nhau rồi
Dòng sông nước chảy con thuyền sóng đưa xa bờ
Tại vì ai mà duyên ta lỡ nói gì cũng thôi
Ai đã quên ta mà cớ sao ta còn thương
Trách ai quên tình bao ngày chạy theo duyên mới
Lỡ yêu thương người nên giờ dang dở đời ta.

(Trách sao quên tình nhưng người nào đâu hay biết
Nhớ thương rất nhiều nhưng tình phải đành lìa xa …)

Bậu mình ơi ! Ví dầu lỡ xa nhau rồi
Dù bao trắc trở xin người chớ quên câu thề
Chuyện tình xưa dù sao đi nữa vẫn là giấc mơ
Gửi ấm con tim để tháng năm thôi lạnh căm
Nếu xưa đôi mình chưa lần đường quê chung lối
Nếu chưa không hẹn bây giờ đâu làm khổ nhau

(Nếu xưa đôi mình chưa lần đường quê chung lối
Nếu chưa không hẹn bây giờ đâu làm khổ nhau …)

Trách ai quên tình bao ngày chạy theo duyên mới
Lỡ yêu thương người nên giờ . . . dang dở đời ta . . .

Thứ Bảy, 12 tháng 6, 2021

Hoài Linh và sự cảnh báo về nền văn hóa bị lũng đoạn

(ĐQT)- Điều gì tạo nên sự khác biệt giữa nghệ sỹ và giới giải trí

Sự bát nháo của nghệ sĩ hiện nay khiến chúng ta cần phải nghiêm túc phân định đâu là nghệ sĩ thực thụ, đâu là người hoạt động nghệ thuật và những hiện tượng tương tự.

Theo nghĩa thông thường, danh xưng nghệ sĩ là để chỉ những người có năng lực nghệ thuật, phải sáng tạo ra nghệ thuật, tạo ra các sản phẩm chứa đựng giá trị lớn về tư tưởng, tinh thần nhân văn, đặc biệt nâng tầm giá trị văn hóa dân tộc. Đặc biệt, những người hoạt động nghệ thuật – giới nghệ sĩ đẳng cấp khác biệt hoàn toàn với showbiz – giới giải trí. Nghệ sĩ lấy văn hóa làm động lực và mục tiêu chính, còn showbiz thì đặt mục tiêu giải trí và lợi nhuận cao hơn.

Theo nghĩa này, lật ngược lại quá trình hoạt động của Hoài Linh từ hải ngoại đến khi về nước, xét về thể loại hoạt động của Hoài Linh, hoàn toàn không thể xếp Hoài Linh vào danh mục nghệ sĩ thực thụ, hoạt động nghệ thuật đúng nghĩa. Nghệ sĩ phải là người sáng tạo ra nghệ thuật, Hoài Linh thì sáng tạo ra nghệ thuật gì?

Nói thẳng Hoài Linh chỉ là một người làm giải trí, gây cười, tạo không gian hài hước trong phút chốc cho mọi người. Lượng người hâm mộ của Hoài Linh tìm đến anh cũng chỉ để giải trí cho vui vì anh độc, lạ hơn những “cây hài” trong nước từ trước đến nay. Nhưng từ đây mới thấy có sự nhầm tưởng. Người ta đặt cho anh biệt danh là danh hài, rồi đưa anh lên làm anh Bốn, đội anh làm cây đa cây đề trong giới showbiz, đầy thị phi và chụp giật. Để rồi từ sự lấp lánh hào quang, có trong tay lượng người hâm mộ đó, Hoài Linh vô tình khiến công chúng nhầm tưởng, rồi cơ quan chức năng nhầm tưởng trao cho anh danh hiệu mà lý ra anh không hề xứng đáng.

Hoài Linh từng bước đắp áo giáp cho bản thân mình

Nói về tài năng thì Hoài Linh không thể qua được nghệ sĩ thực thụ trong nước. Nhưng nói về sự ma mãnh trong giới giải trí, về độ chớp thời cơ và toan tính thì có lẽ trong cái showbiz Việt, Hoài Linh đứng thứ 2 thì chả có ai đủ trình đứng thứ 1. Điều đó thể hiện sắc nét trong thao tác anh khuếch trương bản thân, từ danh hiệu đầy hào quang có được, Hoài Linh tự tạo thêm quyền lực cho mình bằng cách xây nhà thờ.

Điểm nhấn và cũng là cú rơi “chết người” có chủ đích ở đây chính là Hoài Linh xây nhà thờ cá nhân nhưng khôn lõi khi sử dụng tiểu xảo hô biến, lấp liếm đặt cho cái tên như là của chung – “nhà thờ Tổ”, để mọi người nhầm tưởng cái nhà thờ này là của cả giới nghệ thuật. Rồi từ đó, Hoài Linh dùng nó làm quyền lực để mặc cả chính quyền, ép chính quyền phải công nhận việc xây dựng trái phép.

Hoài Linh đứng tên nhà thờ, tự đặt mình lên tầm cao mới, tự phong mình lên bậc thánh nhân, tự đắp cho mình tượng đài và đặt mình lên hàng Tổ nghiệp.

Hoài Linh tổ chức đám tang của một người trong showbiz, cả dàn đàn em tháp tùng hùng hậu, tương xứng với cái danh hiệu là “ông trùm” – “ông Tổ” của showbiz. Và cũng chính đàn em của anh – Cát Phượng, Trần Anh Thư đã thể hiện điều đó một cách sắc nét khi ngông cuồng, sử dụng cái mác “Anh Bốn” của anh như “miễn tử kim bài” đi lòe thiên hạ: “Anh Bốn em đã biết điều này”, đi đe nẹt, đòi xử lý bất cứ những ai comment trái ý trên cộng đồng mạng – hành vi không khác băng đảng giang hồ là mấy.

Nhìn lại, hành vi của chính những người bên cạnh anh, chịu sự tác động của Hoài Linh mới thấy nguy hại vô cùng. Như Đàm Vĩnh Hưng – đàn em thân thiết nhất của anh, người được một tay anh “đào tạo” nên vóc nên hình đã có phát ngôn không thể nào giang hồ hơn: “Đàm Vĩnh Hưng là vùng đất cấm”. Ngay đến cả con của Hoài Linh, tuổi đời chưa thấm tương chao đã thay cha chửi người dân Việt Nam là “lũ vô ơn” trước những “cống hiến” của cha nó.

Sự ẩn mình tinh vi của một "ông tổ" từ Hải ngoại  về Việt Nam

Nghệ sĩ là một định danh nghề nghiệp như bất cứ nghề nghiệp nào khác, cũng như bác sĩ, kỹ sư, giáo viên… Chính sự ngộ nhận và hiểu biết chưa đúng đắn về những giá trị giả – chân và thêm sự hào quang lấp lánh của ánh đèn sân khấu làm cho sự ảo tưởng tăng lên dẫn đến sự kiêu mạn trong hành vi, phát ngôn, ý nghĩ lạc lối, lỗi lầm.

Dù rất đau lòng nhưng nhìn thẳng vào sự thật, phải thừa nhận rằng, chính sự ảo tưởng của cả một bộ phận từ người giải trí, giới văn nghệ, khán giả và cả một bộ phận chính quyền đã góp phần ít nhiều làm cho văn hóa xuống cấp. Những con sâu làm sầu nồi canh này vô tình trở thành lực cản, phá hoại đi biết bao nỗ lực của các thế hệ nghệ sĩ làm nghệ thuật thực thụ, tử tế, điển hình như Giáo sư Trần Văn Khê, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Trần Tiến, nhạc sĩ Nguyễn Ánh Chính, nghệ sĩ ưu tú Hoàng Dũng – những con người quên đi những vị kỷ, sự ích kỷ cá nhân, tự nguyện, tự giác đem sức lực, tài năng, trí tuệ của mình đóng góp cho lợi ích chung – lan tỏa những giá trị tư tưởng văn hóa nghệ thuật tốt đẹp cho nước nhà, lối sống tích cực vì cộng đồng, cho đi mà không cần nhận lại!

Nghệ sỹ thì phản biết cống hiến cho nghệ thuật và phải biết từ chối

Nghệ sĩ ưu tú Hữu Châu nói một câu rất hay, mà có lẽ đó cũng là lý do vì sao ông luôn được khán giả yêu mến: “Nghệ sĩ chân chính phải biết cống hiến cho nghệ thuật và phải biết từ chối”. Sự từ chối mà nghệ sĩ Hữu Châu nói đến chính là từ chối gameshow vô bổ, từ chối sản phẩm không phải là nghệ thuật, những sản phẩm dễ dãi và những cám dỗ làm hư người. Trên hết, người làm nghệ thuật không phải chỉ hời hợt là tiếng cười, mà sâu thẩm, điều cốt lõi chính là nghệ thuật vị nhân sinh – đó cũng chính là linh hồn, góp phần xây dựng, làm giàu đẹp thêm cho nền văn hóa nghệ thuật nước nhà, để lại những giá trị nhân văn cho các thế hệ, đời đời kiếp kiếp về sau.

Một cái bánh răng hình vuông đặt sai chỗ vào vị trí cần hình tròn thì dù nhỏ thôi cũng đủ phá hủy cả hệ thống. Tương tự như vậy, một khi lòng bao dung và sự yêu thương, thứ tha đặt sai chỗ đối với những nghệ sĩ dõm, thì cũng đủ làm tha hóa cả một nền văn hóa, gieo rắc sự lệch lạc làm hỏng tư tưởng của cả “dây chuyền” các thế hệ về sau.

Để xây dựng một nền kinh tế mạnh chỉ cần một thời gian 20 năm. Trong khi để xây dựng một nền văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam phải mất hàng ngàn năm, đó là lý do vì sao ông cha ta phải ra sức bảo vệ văn hóa tư tưởng và những giá trị văn hiến có truyền thống lâu đời.

Ngày nay, văn hóa là một trong những lĩnh vực chịu nhiều tác động, công tác bảo vệ an ninh quốc gia cho thấy, trong lĩnh vực văn hóa – tư tưởng đang có những diễn biến rất phức tạp. Làm phai nhạt bản sắc và truyền thống văn hóa dân tộc để đưa một thứ văn hóa mới vào chi phối, lũng đoạn hệ tư tưởng của một quốc gia, dân tộc là một nốt trầm như tảng băng chìm đang hàng ngày xâm thực dịch chuyển tinh vi, ẩn sâu dưới đáy xã hội, khiến nhiều người không nghĩ đến và có khi được “bọc” kỹ, che giấu tận sâu nơi lòng người, nên khó thấy được và cũng khó nhận ra.

Ông bà mình có một triết lý cấm có sai, không phải cái gì lấp lánh thì cũng là vàng, người bên ngoài biểu hiện đàng hoàng nhưng bên trong chưa chắc là từ tế. Chân lý của cuộc đời, cái gì cũng có giá của nó, không ai muốn mình sống khổ cực bao giờ và với những con người chấp nhận hy sinh cuộc sống ấm no ở hải ngoại, về Việt Nam chỉ để “ăn mắm, mặc áo bà ba”, để tấu hài, lên đồng và năm lần bảy lượt khi bị “bóc phốt” thì phải ép mình xuống nước, bấm bụng giải trình, xin lỗi trước công chúng? Sự dối trá đó dù được thực hiện với bất cứ lý do gì cũng là một mối nguy với văn hóa quốc gia, dân tộc.

Tiến sĩ, nhạc sĩ Phạm Việt Long nhận định: “Không nên cứ thấy một người nào đấy, tác phẩm nào đấy có số lượng công chúng hâm mộ đông đảo thì vội cho đó là nghệ thuật, tuyệt đỉnh”. Đã đến lúc, các cơ quan chức năng cần có sự đào thải và người dân cần tỉnh táo hơn trong vấn đề bảo vệ văn hóa, tư tưởng.

Sự dễ dãi của chính chúng ta trong thời gian qua đã vô tình tiếp tay, khiến một bộ phận người làm giải trí nhầm tưởng về vị trí của mình, để họ tác oai tác quái mượn danh nghệ thuật, lấy danh nghệ sĩ làm vỏ bọc đạt được mục tiêu kép: Vừa để ăn tiền, hưởng nhiều đặc quyền của nước Việt Nam, vừa phá hoại an ninh tư tưởng, làm lũng đoạn nền văn hóa – văn minh của một quốc gia, một dân tộc!

https://canhco.net/hoai-linh-va-su-canh-bao-ve-nen-van-hoa-bi-lung-doan-p523583.html

 Thực hiện: Dương Thị Hải Yến
        Đồ họa: M.N