THẤT BẠI trong khâu chuẩn bị là chuẩn bị cho một THẤT BẠI!

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2024

Sự thật Hải chiến Hoàng Sa (Lê Văn Thự)

(ĐQT)-LTS – Calitoday News (Nguyên Thanh – Nguyễn Thành Khoa) – Ngày 16 tháng 4 – 2004 vừa qua, chúng tôi nhận được email của một độc giả ký tên là Trần Quý Cảnh. Trong email nói trên, ông Trần Quý Cảnh có chuyển cho chúng tôi một bài viết mang nội dung nói về “trận hải chiến Hoàng Sa” do đích thân Hải quân Trung tá Lê Văn Thự, Hạm trưởng chiến hạm HQ-16 viết. Kèm theo bài viết là phóng ảnh lá thư viết tay của tác giả Hải quân Trung tá Lê Văn Thự gửi cho ông Trần Quý Cảnh đề ngày 25 tháng 3 – 2004. Bài viết này – theo như trong thư nói trên cho biết – đã dược đăng trên báo Thời Luận ở Los Angeles nhưng không đề rõ là vào lúc nào.

Được sự giới thiệu của anh Nguyễn Quang Hoàng và anh Đào Hiếu Thảo (RFA), tôi kính gởi đến quý cơ quan bài viết “Sự thật về trận hải chiến Hoàng Sa” của Hải quân Trung tá Lê Văn Thự, Hạm trưởng chiến hạm HQ-16 và lá thư của tác giả gởi cho tôi. Với lá thư này tôi chịu trách nhiệm về sự ký thác bài viết kể trên.

Kính xin qúy cơ quan tùy nghi tiện dụng.

Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quý cơ quan và kính mong được hồi âm.

Kính,

Trần Quý Cảnh

Sự thật về trận hải chiến Hoàng Sa – Tác giả: Lê Văn Thự

Từ ngày trận hải chiến Hoàng Sa xảy ra đến nay, tôi vẫn giữ im lặng, không viết ra những điều mắt thấy tai nghe những gì xảy ra trong trận chiến, vì nghĩ rằng trận chiến Hoàng Sa là một thất bại vì đã không giữ được đảo Hoàng Sa. So với những chiến tích lẫy lừng của tiền nhân trong lịch sử thì chúng tôi đã không làm nên được tích sự gì, vì vậy tôi cảm thấy hổ thẹn khi phải viết ra.

Nhưng nay đã có nhiều người viết về trận Hoàng Sa, trong đó có Hải quân Đại tá Hà Văn Ngạc là người chỉ huy trận chiến, và Trung úy Hải quân Đào Dân thuộc HQ-16. Nay lại có thêm Hải quân Trung tá Vũ Hữu San, Hạm trưởng HQ-4 viết một cuốn sách nói về trận chiến Hoàng Sa. Trong các bài viết cũng như cuốn sách đó, mỗi người nói một cách, không ai giống ai. Nếu ai chỉ đọc một bài thôi thì có thể tin đó là thật, nhưng nếu người đọc tinh ý thì vẫn có thể tìm thấy một vài chi tiết chứng tỏ người viết thiếu thành thật hay nói vu vơ phô trương nhiều hơn những gì cần nói. Còn nếu đọc hết tất cả các bài viết thì sẽ thấy người nói hươu kẻ nói vượn, chẳng biết tin ai. Người đọc sẽ đánh giá thấp Hải quân Việt Nam Cộng hòa và sẽ thắc mắc không biết trận chiến Hoàng Sa thật sự như thế nào.

Chính vì lý do này mà tôi phải lên tiếng. Tôi biết trong Hải quân có một số người biết sự thật, nhưng ai nói sai họ vẫn mặc kệ, miễn người viết đề cao Hải quân, còn nói thật thì họ cho là mất mặt Hải quân. Vì vậy khi viết bài này, tôi biết trước là sẽ có nhiều người bất mãn vì bài viết của tôi, không những bất mãn mà tệ hơn, còn lên án tôi là kẻ bêu xấu Hải quân, nhưng tôi vẫn phải viết để nói lên sự thật và nói thay cho những người đã chết trong trận Hoàng Sa.

Tôi cũng xin độc giả hiểu cho rằng trong các quân binh chủng, hàng tướng tá, úy, sĩ quan hay trong bất cứ tập thể nào cũng có người tốt kẻ xấu, người có trình độ cao, kẻ trình độ thấp, do đó xin quí vị không nên vơ đũa cả nắm. Hơn nữa bây giờ ra hải ngoại rồi, chúng ta phải nhìn nhận sự thật Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ chính vì cấp lãnh đạo và những người có trách nhiệm chứ đừng đổ lỗi cho đồng minh phản bội để chối tội.

Trước khi vào bài, tôi xin nêu lên vài ý kiến về bài viết của Trung úy Đào Dân vì ông ta cùng ở trên HQ-16 với tôi. Những gì xảy ra trên HQ-16, Trung úy Dân viết có thể đúng nhưng chưa chắc đã thấy hết mọi chuyện xảy ra trên HQ-16 vì ông chỉ ở một vị trí nào đó trên chiến hạm chứ không thể có mặt ở trên khắp mọi nơi, ngoài ra ông còn phải lo làm phận sự của ông chứ không thể ngồi không mà quan sát trận chiến. Những gì ông viết về HQ-4, HQ-5 và HQ-10 là hoàn toàn không đúng sự thật. Chính tôi là người chỉ huy HQ-16 mà cũng không biết những hoạt động của HQ-4, HQ-5 làm sao ông Dân biết được?

Tôi nghĩ là ông Dân muốn viết về trận chiến Hoàng Sa mà ông có tham dự, nhưng khi muốn viết cho đầy đủ, ông phải nói đến các chiến hạm khác mà ông không biết hoạt động của các chiến hạm này nên phải tưởng tượng ra hoặc dựa vào phần nào bài viết của Đại tá Hà Văn Ngạc mà bài viết của Đại tá Hà Văn Ngạc thì hoàn toàn sai sự thật (tôi sẽ đề cập sau), điều này chắc chắn ông Dân cũng biết nên ông dễ dàng phóng bút theo mà không dám nói sự thật.

Ông Dân nói Trung Cộng đặt đài quan sát trên đảo, xây dựng doanh trại, và toán người nhái đổ bộ trong ngày cuộc chiến xảy ra báo cáo là có cả một tiểu đoàn quân Trung Cộng trú đóng, là không đúng sự thật. Chỉ có một dãy nhà gỗ đang xây cất dở dang. Còn người nhái không đổ bộ trong ngày cuộc chiến xảy ra và cũng chưa bao giờ lên được đảo.

Ông Dân viết: “Khi chúng tôi được lệnh tiến về phía đảo, HQ-10 hình như có vẻ chần chừ vì khoảng cánh giữa chúng tôi ngày càng xa và hạm trưởng HQ-16 đã nhiều lần thúc dục HQ-10 phải chạy sát nhau hơn”. Đây là chuyện không có. Sự thật, trong trận chiến HQ-16 tiến một hướng, HQ-10 tiến hướng khác để vào lòng chảo quần đảo Hoàng Sa chứ không tiến cùng một hướng. Từ đầu đến cuối trận chiến, HQ-10 đã làm đúng những gì tôi nói với Hạm trưởng HQ-10 tối hôm 18 tháng 1 năm 1974 trước ngày khai chiến 19 tháng 1 năm1974.

Ông Dân nói việc các chiến hạm hải hành tập đội để phô trương lực lượng là hoàn toàn không có. Đã đi đánh trận mà còn phô trương lực lượng thì không còn gì ngớ ngẩn bằng.

Ông Dân nói HQ-4 dùng mũi tàu để ủi tàu Trung Cộng ra xa đảo Hoàng Sa là chuyện không đúng sự thật và cũng không thể nào làm như vậy được. Cũng như phóng đồ kế hoạch điều quân của ông Dân cho thấy HQ-4 và HQ-5 tiến vào lòng chảo để tác chiến cũng là không thật nữa. Hướng tiến quân của HQ-4, HQ-5 vào lòng chảo chính là hướng tiến quân của HQ-10. Ông Dân đưa thêm HQ-4, HQ-5 vào cho đủ bộ thành trật lất. Sự thật là HQ-4 và HQ-5 chỉ ở vòng ngoài chứ không tham dự trận chiến trong lòng chảo.

Nếu HQ-4 và HQ-5 có mặt trong lòng chảo thì khi HQ-16 và HQ-10 bị trúng đạn thì HQ-4 và HQ-5 làm gì không thấy ông Dân nói đến !

Trên đây là các điểm tôi muốn đính chính về bài viết của Trung úy Đào Dân. Và sau đây là những gì xảy ra trong trận chiến mà tôi đã chứng kiến. Trước khi nói đến trận đánh, tôi xin sơ lược về quần đảo Hoàng Sa.

☸☸☸

Quần đảo Hoàng Sa (gọi chung là Paracels) cách bờ biển Đà Nẵng 180 hải lý về phía đông. Như quí vị thấy trong bản đồ, quần đảo Hoàng Sa gồm một số đảo ghi trong bản đồ quây quần nhau làm thành một lòng chảo, muốn vào bên trong lòng chảo đó phải theo hai lộ trình mà chúng tôi thường gọi là cái “pass”. Một cái ở giữa đảo Hoàng Sa và đảo Cam Tuyền. Cái kia ở giữa bãi đá ngầm Antelope và đảo Quang Hòa.

Bản đồ này tỷ lệ xích quá nhỏ nên các đảo chỉ bằng lóng tay hay chỉ là những dấu chấm. Quần đảo Hoàng Sa không chỉ có bấy nhiêu đảo trong bản đồ mà còn một số đảo khác nữa nằm rải rác ở phía đông bắc. Những đảo trong bản đồ là những đảo tận cùng phía nam của quần đảo Hoàng Sa. Nhìn vào bản đồ, quí vị thấy các đảo rời nhau, có khoảng trống ở giữa, nhưng tàu bè không chạy qua được vì đá ngầm và san hô ở dưới mặt nước, chỉ ra vào lòng chảo bằng hai cái “pass” tôi nói ở trên.

Quần đảo Hoàng Sa có đảo lài, có đảo cao nhưng cũng chỉ cao hơn mặt biển chừng vài chục thước. Các đảo phần nhiều trơ trụi, hiếm có cây cao, toàn đá lởm chởm, chỗ cao chỗ thấp, ít có nơi bằng phẳng. Gần bờ thì có đá ngầm, san hô. Hết đá ngầm, san hô thì biển rất sâu. Đáy biển cũng có đá nên neo tàu không an toàn. Quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa không thể lập căn cứ hải quân được vì không có chổ ẩn núp cho tàu bè, chỉ có thể lập căn cứ trên đảo mà thôi.

Tất cả các đảo đều không có nước ngọt, trừ đảo Hoàng Sa mà chúng tôi thường gọi là “đảo khí tượng” vì có đài khí tượng do người Pháp thiết lập và sau này luôn luôn có nhân viên khí tượng Việt Nam làm việc cho đến ngày trận chiến Hoàng Sa xảy ra. Người Pháp xây một hồ chứa nước bên trong nhà, có các máng xối hứng nước mưa chuyền vào bên trong hồ chứa để dùng cho cả năm.

Trên đảo Hoàng Sa mấy năm đầu tiên có một trung đội Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ. Về sau vì nhu cầu chiến trận, Thủy Quân Lục Chiến phải rời đảo và được thay thế bởi Địa Phương Quân của tiểu khu Quảng Nam. Họ phải ở trên đảo Hoàng Sa vì chỉ đảo này mới có nước ngọt. Thủy Quân Lục Chiến hay Địa Phương Quân đều được trang bị xuồng cao su để di chuyển quanh các đảo mà kiểm soát.

Sau khi biết tổng quát vị trí các đảo, quí độc giả có thể theo dõi diễn tiến trận chiến Hoàng Sa sau đây. Tôi cũng xin thưa trước là những gì xảy ra tôi không nhớ chính xác giờ giấc, chỉ phỏng chừng. Nhưng những sự kiện thì xác thực. Ngày giờ và sự kiện xảy ra đều có ghi trong “nhật ký hải hành” và “nhật ký chiến hạm”nhưng nay không có thể tham khảo được.

Ngày 15 tháng 1 năm 1974 tàu tôi, HQ-16, được lệnh ra công tác đảo Hoàng Sa, chở theo một cố vấn Mỹ và một Thiếu tá bộ binh thuộc Quân đoàn 1 (mà nay tôi không còn nhớ tên).

Tàu khởi hành tối ngày 15 tháng 1 năm 1974 và đến Hoàng Sa sáng 16 tháng 1 năm 1974. Khi đến nơi, Địa Phương Quân trên đảo thấy tàu đã lái xuồng ra đón viên Thiếu tá Bộ binh lên đảo. Trong khi chờ đợi đưa Thiếu tá Bộ binh về lại Đà Nẵng, tôi vận chuyển tàu rời đảo Hoàng Sa ra biển, thả trôi tàu gần đảo Quang Hòa. Tôi lấy ống nhòm nhìn lên các đảo chung quanh để ngắm nhìn phong cảnh và tiêu khiển thì giờ.

Khi nhìn lên đảo Quang Hòa thì thấy có một dãy nhà sườn gỗ còn đang xây cất dở dang, chỉ có sàn nhà, chưa có mái. Tôi thấy lạ, liền gọi máy về Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải (BTL/HQ/VIZH) hỏi thì nơi đây hỏi lại tôi là có biết người nào trên đó không? Tôi trả lời chỉ thấy bốn, năm người di chuyển tới lui nơi dãy nhà đang xây cất chứ không biết là ai. Họ ăn mặc thường dân, có người ở trần, nhưng có nhà xây cất thì chắc là người ngoại quốc mà không ai khác hơn là Trung Cộng, vì cách đảo Quang Hòa chừng 20 hải lý về phía đông bắc có căn cứ của Trung Cộng, cũng nằm trong quần đảo Hoàng Sa.

HQ-16 vẫn thả trôi tàu để chờ Thiếu tá Bộ binh và chờ lệnh từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải.

Trưa ngày 16 tháng 1 năm 1974 một chiến hạm Trung Cộng xuất hiện trong vùng.
Tối ngày 17 tháng 1 năm 1974 Bộ Tư Lệnh Hải Quân gởi ra một toán người nhái do HQ-4 chở ra. Toán người nhái này rời HQ-4 bằng xuồng cao su để lên HQ-16.

Sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974 HQ-5 và HQ-10 có mặt ở khu vực Hoàng Sa. Đại tá Hải quân Hà Văn Ngạc ở trên HQ-5 là người chỉ huy cuộc chiến.

HQ-5 do Trung tá Phạm Trọng Quỳnh (khoá 11) chỉ huy.
HQ-16 do tôi, Trung tá Lê văn Thự (khoá 10) chỉ huy.
HQ-4 do Trung tá Vũ Hữu San (khoá 11) chỉ huy.
HQ-10 do Thiếu tá Ngụy Văn Thà (khoá 12) chỉ huy.

Khoảng 10 giờ sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974 Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho tôi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, sau đó cho toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa và một toán của HQ-16 lên giữ đảo Vĩnh Lạc.

Sau khi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, tôi vận chuyển HQ-16 bên trong lòng chảo để đến gần đảo Quang Hòa đổ bộ toán người nhái lên đảo thì một tàu Trung Cộng xuất hiện, cản trước mũi, không cho tàu tôi tiến gần đến đảo (xem hình 1).


Tôi phải ngưng máy, vận chuyển để tránh đụng tàu. Nhưng cả hai tàu cũng cọ vào nhau làm dẹp một số trụ căng dây an toàn chung quanh tàu Trung Cộng và làm rách bè nổi của tàu Trung Cộng. Nhờ xáp lại gần, tôi thấy tàu Trung Cộng số hiệu 271, dài chừng 70 mét, có súng tương đương với súng 76.2 ly, 40 ly, 20 ly và đại liên 12.7 của tàu tôi. Tàu Trung Cộng nhỏ hơn tàu tôi nhưng vận chuyển nhanh nhẹn hơn.

Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc những gì xảy ra. Sau đó tôi lái tàu ra khỏi lòng chảo và đổ bộ toán người nhái vào mặt ngoài biển (mặt nam) của đảo Quang Hòa vào chiều ngày 18 tháng 1 năm 1974.

HQ-16 chỉ ở cách xa bờ một, hai hải lý rồi người nhái thả xuồng cao su có trang bị máy mà chạy vào bờ chứ HQ-16 không thể vào sát bờ được vì đá ngầm và san hô. Toán người nhái rời tàu chừng non một tiếng thì gọi máy báo cáo là ở trong bờ bắn ra. Tôi hỏi người liên lạc máy là có thấy người ở trên bờ không và các anh đã lên được bờ chưa? Họ trả lời là đang lội nước ngang ống chân, còn vài chục thước nữa mới tới bờ. Họ cũng cho biết là không thấy người trên bờ.

Vài phút sau thì nghe báo cáo là một Thiếu úy người nhái bị bắn chết. Họ xin rút lui vì không thể vào bờ an toàn được. Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc và xin cho người nhái rút lui. Toán người nhái đã trở về lại HQ-16.

Chiều ngày 18 tháng 1 năm 1974, khoảng 6 giờ, Đại tá Ngạc gọi máy cho tôi và ra lệnh cho tôi chỉ huy HQ-10, bằng mọi giá phải đổ bộ cho được toán người nhái lên đảo Quang Hòa. Sau khi đại tá Ngạc ra lệnh này xong, thì từ đó về sau tôi không còn nghe lệnh lạc gì thêm từ Đại tá Ngạc nữa.

Đến tối ngày 18 tháng 1 năm 1974 máy liên lạc âm thoại giai tần đơn bị Trung Cộng phá rối tần số, không liên lạc được. Tôi không thể gọi Đại tá Ngạc, HQ-4 hay bộ tư lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải. Tôi chỉ liên lạc được với HQ-10 bằng máy PRC-45 là loại máy truyền tin xách tay, chỉ liên lạc được trong vòng 10 hải lý.

Sau khi nhận lệnh, tôi nghĩ chỉ còn cách đổ bộ toán người nhái vào ban đêm mới may ra lên được đảo, nhưng chưa chắc toán người nhái đã vào trót lọt được vì có thể tàu Trung Cộng theo dõi và liên lạc chỉ điểm cho người của họ trên đảo canh chừng để bắn khi người nhái vào bờ. Ngoài ra thức ăn, nước uống không có, làm sao toán người nhái có thể hoạt động lâu hơn một ngày được, và ít nhất cũng phải có một tiểu đội hay trung đội Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ gần bờ yểm trợ cho toán người nhái khi họ rút lui nếu bị phát hiện hay khi gặp lực lượng địch mạnh hơn. Vì thế, muốn thi hành lệnh của Đại tá Ngạc, tôi nghĩ chỉ còn cách là phải tiêu diệt tàu Trung Cộng trước rồi mới tính chuyện đổ bộ người nhái lên đảo sau.
Lúc này phía Trung Cộng xuất hiện thêm hai chiếc tàu nữa cùng loại với chiếc đã có trước.

Tôi gọi Thiếu tá Thà HQ-10 và nói ý định của tôi: Đêm nay HQ-16 và HQ-10 ra thật xa đảo, làm tối chiến hạm (không cho ánh sáng lọt ra ngoài) để tàu Trung Cộng không biết chúng tôi ở đâu. Sáng mai (19 tháng 1 năm 1974) sẽ tiến vào lòng chảo. HQ-16 vào cái “pass” gần đảo Hoàng Sa, HQ-10 vào cái “pass” gần đảo Quang Hòa (xin xem hình 2).

Tôi cũng nói với Thiếu tá Thà là anh cũng như tôi, phải cố gắng hết sức mình. Nếu một trong hai đứa mà loạng quạng, chỉ còn lại một, thì bọn chúng (ba chiếc tàu Trung Cộng) xúm lại, mình không thể nào chống nổi.

Đêm hôm đó (18 tháng 1 năm 1974) khoảng nửa đêm, tôi tập họp thủy thủ đoàn HQ-16 để thông báo ngày mai sẽ tiến vào đánh tàu Trung Cộng. Tôi cũng nói với thủy thủ đoàn là tất cả mọi người phải can đảm, cố gắng hết sức mình, ai làm phần việc của mình cũng phải nhanh nhẹn, chính xác mới mong thắng và còn sống. Nhất là các ổ súng và toán phòng tai phải lo chuẩn bị trước, xem xét lại súng ống, đạn nước phải đem từ hầm đạn lên để sẵn ở các ụ súng, ống nước cứu hoả phải trải sẵn ra. Máy bơm nước phải sẵn sàng.

Sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974 HQ-16 và HQ-10 tiến vào lòng chảo như dự định.
Tôi gọi máy cho Thiếu tá Thà và nói là nếu chừng nào thấy tôi khai hỏa là phải khai hỏa theo liền.

Khi HQ-16 và HQ-10 qua khỏi hai cái “pass” và vừa tầm súng, tôi quay ngang tàu HQ-16 đưa phía hữu hạm của HQ-16 hướng về ba tàu Trung Cộng. Mục đính của tôi là để tận dụng tất cả súng từ mũi ra sau lái. Nếu hướng mũi tàu về phía tàu Trung Cộng thì chỉ sử dụng được hỏa lực ở phía trước mũi thôi. Với lợi thế sử dụng tối đa hỏa lực nhưng cũng có cái bất lợi là hứng đạn của địch nhiều hơn. Nhưng vì tôi đánh phủ đầu tàu Trung Cộng nên phải sử dụng tối đa hỏa lực. So với tàu Trung Cộng, tàu tôi có đủ loại súng tàu Trung Cộng có, ngoài ra còn có thêm khẩu 127 ly mà tàu Trung Cộng không có. HQ-10 chỉ có hỏa lực ngang bằng tàu Trung Cộng.

Khi đang tiến vào lòng chảo, tôi đã mừng thầm khi thấy ba tàu Trung Cộng đều ở trong lòng chảo, tức là những mục tiêu tốt cho HQ-16 và HQ-10 tác xạ. Nếu chúng ở rải rác, chiếc trong chiếc ngoài lòng chảo thì tôi cũng chưa biết tính sao vì tàu Trung Cộng tuy nhỏ nhưng linh động hơn, nếu chúng ra ngoài biển thì khó bắn trúng hơn vì nó nhỏ và chạy nhanh, còn tàu tôi lại là mục tiêu tốt cho tàu Trung Cộng vì to con nên nặng nề, chậm chạp nên dễ lãnh đạn hơn. Nhưng nay thì cả ba tàu địch bị vây trong vòng chảo vì hai cái “pass” đã bị HQ-16 và HQ-10 chặn rồi.

Khi đã ở đúng vị trí và vị thế dự định (xin xem hình 2), HQ-16 cách HQ-10 chừng một hải lý, hai tàu HQ-16 và HQ-10 cách ba tàu Trung Cộng từ 3 đến 4 hải lý, tôi ra lệnh lần chót: các ổ súng phải luôn luôn theo dõi mục tiêu, mục tiêu nào thuận lợi thì bắn mục tiêu đó. Sau khi hỏi tất cả các ổ súng đã sẵn sàng chưa, tôi ra lệnh khai hỏa.

HQ-16 và HQ-10 đứng yên một chỗ còn ba tàu Trung Cộng di chuyển loanh quanh sát vòng cung lòng chảo gần đảo Duy Mộng và bắn trả chúng tôi.

Tôi hy vọng trong 5,10 phút là triệt hạ được tàu Trung Cộng vì khai hỏa trước và sử dụng tối đa hỏa lực trong khi tàu Trung Cộng bị tấn công bất ngờ vì ngày hôm trước, tàu tôi bị họ chặn, tôi bỏ đi mà không có gì xảy ra nên họ không ngờ rằng tôi sẽ tấn công họ.

Mười phút trôi qua mà chưa thấy tàu Trung Cộng hề hấn gì, tôi bắt đầu sốt ruột, trong khi đó tôi nghe tiếng lách tách, lép bép trên trời như tiếng pháo bông giữa tàu tôi và HQ-10 và về phía HQ-10 nhiều hơn. Tôi nghĩ chắc là đạn thời chỉnh tức là đạn tự động nổ mà không cần chạm mục tiêu. Trận chiến vẫn tiếp tục. Chừng khoảng phút thứ 20 hay 30, tôi thấy một tàu Trung Cộng bốc khói, một tàu khác có thể bị trúng đạn làm hư hệ thống tay lái nên tàu cứ xoay quanh như gà trống chạy lòng vòng trước khi đạp mái.

Tiếp đến HQ-10 báo cáo Hạm trưởng bị thương. Tôi ra lệnh Hạm phó lên thay quyền chỉ huy, đồng thời đặt ống nhòm nhìn sang HQ-10 tôi thấy một ngọn lửa nhỏ cháy ở đài chỉ huy có thể dập tắt được bằng bình CO2 mà sao không ai làm. Quan sát phía sau lái HQ-10 tôi thấy 4, 5 cái đầu nhấp nhô trên mặt biển. Tôi không biết chuyện gì xảy ra trên HQ-10 vì không nghe báo cáo gì thêm. Tôi đoán chừng vì Hạm trưởng bị thương nặng nên HQ-10 như rắn mất đầu. Một số nhỏ nhát gan sợ tàu cháy hay trúng đạn nổ nên đã nhảy xuống biển. Nhưng HQ-10 vẫn nổi bình thường, thăng bằng, không nghiêng một chút nào cả.

Sau đó hầm máy hữu HQ-16 báo cáo trúng đạn ở lườn tàu dưới mặt nước. Nước tràn vào tàu. Trung sĩ điện khí Xuân bị thương. Nhân viên cứu hỏa tìm cách bít lỗ thủng. Chừng vài phút sau, tàu bắt đầu nghiêng. Hầm máy báo cáo lỗ thủng bít không được vì nước vào quá mạnh, chỗ thủng nằm trong kẹt không có chỗ cho nhân viên cứu hỏa xử dụng đà chống để chặn tấm bố và tấm gỗ bít lỗ thủng. Nước ngập đến đầu gối. Tôi ra lệnh nếu không bít được lỗ thủng thì đóng nắp hầm máy lại đừng cho nước chảy ra khỏi hầm máy. (Tôi nhớ hầm máy hữu trúng đạn mà trong bài viết của ông Dân thì lại viết là hầm máy tả !).

Tàu chỉ còn một máy tả và một máy điện, phòng vô tuyến liên lạc truyền tin bị gián đoạn vì mất điện. Nhận thấy tình thế không thể tiếp tục chiến đấu được nữa, tôi vận chuyển tàu quay trở ra theo cái “pass” đẻ rời lòng chảo.

Tàu mỗi lúc một nghiêng thêm (trên 10%) và chỉ còn một máy nên vận chuyển rất khó khăn. Hầm máy hữu báo cáo nhân viên phải rời hầm máy vì tàu sắp chìm.

Thấy độ nghiêng của tàu đến mức gần hết độ an toàn, có thể tàu sẽ lật, nên tôi ra lệnh: toàn thể nhân viên vào nhiệm sở đào thoát vì sợ họ không còn thì giờ đào thoát kịp. Ra lệnh xong, tôi nắm lấy tay lái tiếp tục lái thay cho nhân viên ra nhiệm sở.

Trong khi tôi đang lái thì Đại úy Hiệp, cơ khí trưởng, chạy lên đài chỉ huy, nói với tôi: “Vì sao hạm trưởng cho nhiệm sở đào thoát? Tôi đang ráng làm cân bằng tàu”. Tôi nói là tàu mỗi lúc một nghiêng thêm, không biết sẽ lật chìm lúc nào nên phải chuẩn bị đào thoát.

Lúc này tàu nghiêng đã đến độ bão hòa (không nghiêng thêm nữa) vì nước đã vào đầy hầm máy. Tôi cho giải tán nhiệm sở đào thoát và vào lại nhiệm sở tác chiến. Lúc này ở đài chỉ huy có Trung úy Đoàn Viết Ất, tôi nói với Trung úy Ất: “Tàu nghiêng như thế này, khó mà lái ra biển an toàn được, chắc tôi phải ủi tàu vào đảo khí tượng (đảo Hoàng Sa) để cố thủ và chờ HQ-4, HQ-5 tiếp viện”.

Trung úy Ất nói với tôi: “Xin Hạm trưởng đừng ủi tàu vào đảo khí tượng. Mình sẽ bị Trung Cộng bắt làm tù binh. Làm tù binh Trung Cộng thì kể như chết rục xương trong tù, không còn thấy cha mẹ, vợ con, quê hương xứ sở. Xin Hạm trưởng cứ lái ra biển. Tàu có chìm thì đào thoát vẫn còn cơ may sống sót. Nếu chết thì chết trên biển vẫn sướng hơn”.

Bây giờ viết lại câu nói này của Trung úy Ất tôi vẫn còn xúc động đến chảy nước mắt. Nghe Trung úy Ất nói, tôi suy nghĩ thêm: Nếu tôi cứ ủi vào đảo khí tượng thì cũng không thể nào ủi sát vào bờ được vì gần bờ đá ngầm rất nhiều. Nếu ủi, tàu sẽ mắc cạn, lườn tàu sẽ bị đá ngầm rạch nát, nước sẽ vào thêm, tàu sẽ hoàn toàn tê liệt mà thủy thủ đoàn cũng không thể nào lên đảo được. Do đó tôi tiếp tục lái tàu ra khỏi “pass” đồng thời ra lệnh nhân viên hướng súng về đằng sau và về phía quần đảo Hoàng Sa canh chừng tàu Trung Cộng truy kích theo.

Khi rời Hoàng Sa, tôi hết sức ân hận đã bỏ lại trên đảo một toán nhân viên 8 người do Trung úy Liêm chỉ huy khi có lệnh đưa nhân viên lên giữ đảo. Trung uý Liêm và toán nhân viên sau đó đã mạo hiểm vượt biển bằng bè vì không muốn Trung Cộng bắt làm tù binh. Sau hơn mười ngày lênh đênh trên biển, bè trôi về tận ngoài khơi Qui Nhơn, được ngư phủ cứu và đưa vào bệnh viện Qui Nhơn cấp cứu. Họ vượt biển mà không chuẩn bị thức ăn nước uống nên Hạ sĩ quản kho Nguyễn Văn Duyên đã chết vì kiệt sức khi đưa vào Qui Nhơn.

Ra khỏi “pass” tôi hướng tàu về Đà Nẵng, lúc này khoảng 5 – 6 giờ chiều ngày 19 tháng 1 năm 1974. Tàu chỉ còn một máy và nghiêng nên chạy chậm. Khi trời bắt đầu tối, tàu cách Hoàng Sa chừng 15 hải lý. Lúc này tôi mới thở ra nhẹ nhõm vì chắc tàu Trung Cộng cũng bị thương tích cả người lẫn tàu nên không truy kích tàu tôi.

Bây giờ mối lo khác lại đến với tôi là tàu có thể lật chìm bất cứ lúc nào nếu có sóng chếch xuôi rất dễ làm tàu lật. Tôi cho nhân viên chuẩn bị các bè nổi, xem xét lại cách xử dụng để khi hữu sự thì làm cho nhanh chứ khi tàu lật thì không có thì giờ mà mò mẫm.

Lúc này hệ thống truyền tin vừa được sửa chữa xong. Nhân viên vô tuyến báo cáo tình trạng chiến hạm về Bộ Tư lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, nhưng không thấy HQ-4 và HQ-5 lên tiếng.

Một tin làm bàng hoàng mọi người trên chiến hạm là Trung sĩ Điện khí Xuân trút hơi thở cuối cùng vì vết thương quá nặng mà không được săn sóc đúng mức.

Đại úy Hiệp mang họa đồ chiến hạm các khoang hầm trên tàu lên đài chỉ huy cho tôi biết đã làm cân bằng tàu bằng cách bơm nước và dầu từ hầm này sang hầm khác và dồn về phía tả hạm, nhưng tàu cũng không bớt nghiêng bao nhiêu. Đại úy Hiệp nói: “Bây giờ chỉ còn cách bơm xả nước ngọt và dầu ra biển may ra mới làm tàu bớt nghiêng”. Xả nước ngọt và dầu ra biển thì tôi rất ngại mà cũng không chắc là khi xả xong tình trạng có khá hơn không hay lại tệ hơn vì phải biết trọng tâm con tàu trước và sau khi xả nằm ở đâu rồi mới dám làm.

Học môn lý thuyết thuyền bè trong trường Hải Quân nhưng ra trường lâu ngày và gặp lúc hữu sự, lại không còn nhớ cách tính trọng tâm con tàu nên tôi không dám bảo Đại úy Hiệp làm và giữ nguyên tình trạng như vậy mà chạy về Đà Nẵng. Cũng may nhờ biển rất êm nên không có gì xảy ra.

Sáng 20 tháng 1 năm 1974, khoảng 7 – 8 giờ, tàu vào vịnh Tiên Sa Đà Nẵng nhưng tôi không vận chuyển cặp cầu được. Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải phải xin tàu dòng từ Ty Thương Cảng Đà Nẵng, kẹp ngang hông HQ-16 mà cặp cầu quân cảng Đà Nẵng.

Cặp cầu xong, Thủy xưởng Đà Nẵng sang bơm dầu, nước ngọt ra, làm nhẹ tàu cho tàu nổi lên rồi tìm cách bít tạm lỗ thủng dưới nước (do người nhái lặn xuống nước mà bít, tôi nhớ như vậy không biết có đúng không?). Sau đó bơm nước ngập hầm máy ra và hàn lại lỗ thủng ở hầm máy.

Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải xin toán tháo gỡ đạn dược từ Quân đoàn I sang để tháo gỡ viên đạn còn nằm lại trên tàu. Viên đạn được bắn vòng cầu, rơi xuống nước gần HQ-16, do tốc độ của viên đạn nên khi xuống nước gặp sức cản của nước, viên đạn không đi thẳng xuống nước mà bị lệch hướng rồi đâm vào lườn tàu HQ-16 dưới mặt nước. Viên đạn vẫn còn tốc độ di chuyển, xướt qua một góc máy điện, xuyên đứt tay Trung sĩ điện khí Xuân kế đó rồi chui vào kho điện khí ở một góc hầm máy và nằm ở đó. May là viên đạn không nổ, chứ nổ thì HQ-16 chìm tại chỗ!

Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn dược ngạc nhiên cho biết rằng viên đạn “made in USA” và cỡ 127 ly. Sau này truy ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn.
Sau khi sửa chữa xong, sơn phết lại, làm sạch sẽ, chiến hạm HQ-16 được lệnh về Sài Gòn làm lễ tiếp đón chiến hạm trở về từ Hoàng Sa. Phần thượng tầng kiến trúc của chiến hạm bị lỗ chỗ các lỗ thủng do đạn 40 ly và 20 ly bắn vào vẫn để y nguyên, mục đích cho dân chúng Sài Gòn ai tò mò muốn xem chiến hạm dự trận Hoàng Sa về ra sao, khi lên tàu xem sẽ thấy dấu tích còn để lại trên tàu. Tàu cặp cầu B ở bến Bạch Đằng.

Trong buổi lễ tiếp đón, tôi cùng 4 – 5 nhân viên được Tư Lệnh Hải quân gắn huy chương. Sau buổi lễ dân Sài Gòn được lên xem tàu.Và phóng viên BBC là ông Tôn Thất Kỳ phỏng vấn tôi. Ông hỏi tôi có thấy máy bay phản lực Trung Cộng dự chiến trong trận Hoàng Sa không? Tôi trả lời là tôi không thấy.

Ngày hôm sau, Khối Chiến Tranh Chính Trị Bộ Tư Lệnh Hải Quân (lúc đó Đại tá Trần Văn Triết làm trưởng khối thì phải), phái một Thiếu úy hay Trung úy (mà tôi không nhớ tên hay cấp bậc), xuống HQ-16. Anh ta nói với tôi “Tại sao Hạm trưởng trả lời phỏng vấn đài BBC là không thấy phản lực cơ Trung Cộng?”

Tôi trả lời vị sĩ quan đó: “Anh về nói lại trên Bộ Tư Lệnh là tôi không thấy nên tôi trả lời không có. Nếu Bộ Tư Lệnh muốn tôi nói có thì phải báo trước cho tôi biết”.

Tôi nghĩ nguồn tin này do Đại tá Ngạc báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân nên Bộ Tư Lệnh Hải Quân muốn tôi trả lời phỏng vấn cho phù hợp với nguồn tin. Cũng như Đại tá Ngạc báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân: HQ-10 và HQ-16 mất tích.

Lúc HQ-16 về Sài Gòn, tôi nghe nói lại (không biết có đúng không) là khi nhận được tin HQ-16, HQ-10 mất tích, Đại tá Võ Sum, Trưởng khối Truyền tin Hải quân, đã dùng con lắc (một loại dụng cụ cảm ứng) để xem thử HQ-16 còn hay mất. Tôi không nghe nói kết quả của việc dùng con lắc này.

☸☸☸

Sau khi trình bày chi tiết những gì xảy ra trong trận Hoàng Sa, tôi xin nêu lên những nhận xét của tôi về trận chiến này:

1. Trong trận Hải chiến Hoàng Sa, Hải Quân Việt Nam không có loại tàu thích hợp cho trận chiến. HQ-5, HQ-16, HQ-10 là loại tàu cồng kềnh, vận chuyển chậm, súng quay bằng tay nên theo dõi mục tiêu khó khăn cũng như nhịp bắn chậm. Chỉ có HQ-4 là tối tân nhất, các súng đều sử dụng bằng điện, tốc độ bắn nhanh, radar có tầm xa, vận tốc chiến hạm cao. Nhưng HQ-4 lại không xung trận.

Lúc trước sở phòng vệ Duyên Hải ở Đà Nẵng có loại tàu PT chuyên đi bắn phá phía bắc vĩ tuyến 17 là loại chiến hạm thích hợp với trận chiến Hoàng Sa. Nhưng tôi nghe nói Hoa Kỳ đã thu hồi lại loại tàu này khi họ rút quân khỏi Việt Nam, trước ngày trận chiến Hoàng Sa xảy ra.

2. Không có kế hoạch hành quân. Kể từ khi có mặt ở Hoàng Sa, tôi chỉ có biết một lệnh duy nhất từ Đại tá Ngạc qua máy âm thoại, chỉ định tôi chỉ huy HQ-10 và có nhiệm vụ phải đổ bộ toán người nhái, mà trong bài viết của ông, ông gọi là Biệt Đội Hải Kích, lên đảo Quang Hòa bằng bất cứ giá nào. Ngoài ra tôi không biết gì về hoạt động của HQ-4 và HQ-5 cũng như nhiệm vụ của họ.

Gần đây đọc bài “Tường Thuật Trận Hải Chiến Lịch Sử Hoàng Sa” của Đại tá Ngạc, tôi mới biết là ông chia bốn chiến hạm thành hai phân đoàn:

– Phân đoàn I gồm HQ-4 và HQ-5 (Đại tá Ngạc ở trên HQ-5), do Hạm trưởng HQ-4 chỉ huy là nổ lực chính.

– Phân đoàn II gồm HQ-10 và HQ-16 do Hạm trưởng HQ-16 chỉ huy là nổ lực phụ.

Nội việc chỉ định Hạm trưởng HQ-4 chỉ huy Phân đoàn I là sai nguyên tắc chỉ huy, vì Đại tá Ngạc ở trên HQ-5, như vậy thì Hạm trưởng HQ-4 (Trung tá Vũ Hữu San) chỉ huy luôn cả Đại tá Ngạc sao? Đại tá Ngạc là người chỉ huy trận chiến thì phải kiêm luôn chỉ huy Phân đoàn I mới đúng. Suốt trận chiến, HQ-4 và HQ-5 làm gì tôi không được biết. Và cho đến lúc rời Hoàng Sa về Đà Nẵng, tôi chẳng thấy HQ-4 và HQ-5 đâu.

Sau trận chiến, tôi thấy phải đổi lại Phân đoàn I (gồm HQ-4 và HQ-5) là nỗ lực phụ. Phân đoàn II (gồm HQ-10 và HQ-16) là nổ lực chính mới đúng vì Phân đoàn II trực chiến với tàu Trung Cộng trong lòng chảo, trong khi Phân đoàn I chỉ ở bên ngoài “wait and see”. Và vì quá lo sợ Trung Cộng nên tin chắc thế nào Phân đoàn II cũng bị đánh chìm, Đại tá Ngạc mới ra lệnh HQ-5 bắn vào lòng chảo 5-7 phát trước khi rút lui. Tôi không trách HQ-4 và HQ-5 vì họ chịu sự điều động của Đại tá Ngạc.

Vì không có kế hoạch hành quân nên máy truyền tin bị Trung Cộng phá rối không liên lạc được mà không có tần số dự trù thay thế.

3. Muốn thanh toán quân Trung Cộng trên đảo (tôi nghĩ không nhiều, chừng một tiểu đội) mà dự định đổ bộ một toán người nhái 9, 10 người thì khó mà thành công. Phải có 1, 2 tiểu đội Thủy Quân Lục Chiến tăng cường yểm trợ mới được.
Cần thêm xuồng cao su để đổ bộ quân, tiếp tế lương thực, nước uống và vật dụng.

4. Ra lệnh đưa quân lên giữ đảo mà không cung cấp lương thực, nước uống đầy đủ. Thủy thủ đoàn không có kinh nghiệm tác chiến trên bộ, chỉ có súng cá nhân và một ít đạn bắn chừng nửa tiếng là hết, làm sao giữ được đảo. Nếu chiến hạm bận tác chiến hay bị thiệt hại thì số quân nhân đưa lên đảo phải bị bỏ rơi như trường hợp HQ-16. Đúng là lệnh lạc kiểu mang con bỏ chợ. Phải có kế hoạch đưa Bộ binh hay Thủy Quân Lục Chiến giữ đảo và phải có kế hoạch tiếp tế.

5. Không có bác sĩ trên chiến hạm, chỉ có y tá không kinh nghiệm cứu thương cũng như ngoài khả năng của họ nên ai bị thương thì khó mà sống sót.

6. Trận chiến Hoàng Sa rất giản dị, chẳng có chiến thuật gì rắc rối, phức tạp cả. Tôi chỉ khai thác sơ hở của ba chiến hạm Trung Cộng tập trung một chỗ trong lòng chảo để tấn công. Nếu thủy thủ đoàn HQ-10 và HQ-16 có kinh nghiệm tác xạ, HQ-16 không bị trúng đạn của HQ-5 và Hạm trưởng HQ-10 không bị thương thì chắc chắn ba tàu Trung Cộng phải bị đánh chìm. Tôi còn nghi vấn về Hạm trưởng HQ-10 bị thương là do đạn thời chỉnh của Trung Cộng hay của HQ-4, HQ-5 ?

7. Sau trận chiến, Bộ Tư Lệnh Hải Quân hay ít nữa là Bộ Tư Lệnh Hạm Đội cần có một buổi hội gồm các cấp chỉ huy các đơn vị tham dự trận chiến để mỗi người trình bày những hoạt động của đơn vị mình, nói lên những nhận xét để rút kinh nghiệm học hỏi, cùng những đề nghị nếu được áp dụng thì trận chiến sẽ có kết quả tốt hơn để mọi người cùng thảo luận. Đằng này mọi chuyện đều cho trôi xuôi luôn.

☸☸☸

Bài viết của tôi đến đây xem như đã trình bày xong trận chiến Hoàng Sa, nhưng cũng xin nối tiếp thêm bài viết “Tường thuật trận hải chiến lịch sử” của Đại tá Hà Văn Ngạc.

Toàn bài viết của Đại tá Ngạc từ đầu đến cuối là sai sự thật. Những điều ông nói khó mà kiểm chứng. Chỉ những người ở trên HQ-4, HQ-5, HQ-10 và HQ-16 mới thấy là hoàn toàn do óc tưởng tượng dàn dựng ra. Tôi chỉ nêu lên một số chi tiết mà tôi thấy vô lý hoặc có liên hệ đến tôi mà sai sự thật.

Ông viết: “Bất thần về phía đông vào khoảng 11 giờ 25 sáng, cách xa chừng 8 đến 10 hải lý, xuất hiện một chiến hạm của Trung Cộng loại có trang bị mỗi bên một giàn phóng kép hỏa tiễn loại hải – hải đang tiến vào vùng giao tranh”. Cách xa chừng 8 đến 10 hải lý khó mà thấy được mỗi bên một giàn phóng hỏa tiễn. Chỉ tưởng tượng thôi!

Sau đó cũng chẳng thấy ông nói đến chiến hạm Trung Cộng này làm gì. Ngoài ra ông còn lo sợ cả phản lực cơ và tiềm thủy đỉnh Trung Cộng. Vì quá lo sợ nên không còn tinh thần để chiến đấu nữa. Ông Ngạc viết: “Khoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng 1, 1974 thì hai chiến hạm Phân đoàn I về tới căn cứ an toàn. Tuần dương hạm HQ-16 cũng đã về bến trước đó ít lâu …”.

Sự thực, sáng ngày 20 tháng 11 năm 1974, HQ-16 về đến quân cảng Đà Nẵng và sau đó chẳng thấy HQ-4 và HQ-5 ở Đà Nẵng. Chỉ một mình tôi lên trình diện Tư Lệnh Phó Hải Quân trong phòng hội của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải để trả lời những câu hỏi liên quan đến tổn thất giữa địch và ta trong trận chiến.

Ông Ngạc viết: “Sau khi di tản các chiến sĩ thương vong và tử vong lên căn cứ thì chỉ có ba vị Đô đốc cùng Hải Quân Đại tá Nguyễn Viết Tân, chỉ huy trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải lên Tuần dương hạm HQ-5 và vào phòng Hạm trưởng để dự cuộc thuyết trình về trận đánh. Ba vị Hạm trưởng (HQ-5, HQ-16 và HQ-4 – ghi chú của người viết) đều có mặt để trình bày chi tiết về chiến hạm của mình .v.v…”.

Tôi (Hạm trưởng HQ-16) đâu có mặt trên HQ-5 như Đại tá Ngạc viết.

Trong bài của ông có viết HQ-4, HQ-5 bị trúng đạn, thiệt hại khá nhiều, định chạy về Subic Bay Phi Luật Tân để xin Hoa Kỳ sửa chữa.

Sự thật HQ-4 và HQ-5 chẳng bị trầy một mảnh sơn nào cả. Cả Hải quân đều biết. Vì thế cho nên chỉ một mình HQ-16 được tiếp đón ở Sài Gòn và gắn huy chương chứ không có Đại tá Ngạc hay HQ-4 và HQ-5.

Trong bài viết “Biển Đông dậy sóng” của ông Trần Bình Nam, có câu: “Đại tá Ngạc biết có một cái gì đó sau lưng trận đánh nên đã dè dặt đôi lời trước khi viết rằng, … vân vân …”. Cái gì sau lưng đó, nay được ông Trần Bình Nam nói ra: Đó là chuyến công du Trung Quốc ngày 10 tháng 11 năm 1973 của ông Henry Kissinger mà nội dung ghi lại trong cuốn hồi ký chính trị “Years of Upheaval” và được ông Trần Bình Nam trích ra trong bài viết của ông ta. Đại khái là Hoa Kỳ bắt tay với Trung Cộng để chống lại Nga Sô và qua một vài câu dẫn chứng, ông Trần Bình Nam kết luận có lẽ có sự thỏa thuận giữa Mao, Chu và Kissinger để Trung Quốc chiếm quần đảo Paracels của Việt Nam Cộng Hòa.

Ông Trần Bình Nam viết: “Một tháng sau khi ông Kissinger rời Bắc Kinh, hải quân Trung Quốc lén lút đổ bộ quân lên chiếm một số đảo trong quần đảo Paracels và vân vân …”. Phần tiếp theo của đoạn này chỉ dựa vào những chi tiết sai sự thật trong bài viết “Tường thuật trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa” của Đại tá Ngạc. Như trước ngày trận chiến xảy ra, quân Trung Cộng đã chịu rời đảo mà họ đã chiếm khi có quân từ các chiến hạm Việt Nam đổ bộ chiếm lại đảo (Trung Cộng chỉ chiếm một đảo duy nhất là đảo Quang Hòa. Còn quân từ các chiến hạm chỉ đổ bộ lên các đảo không có quân Trung Cộng như đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc. Toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa nhưng bị bắn nên phải rút ra – lời người viết).

Những điều ông Trần Bình Nam viết chỉ là những phỏng đoán, chẳng có gì chứng tỏ được Hoa Kỳ ngầm thỏa thuận cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Ngược lại, theo nhận xét của tôi, khi dự trận chiến Hoàng Sa, tôi thấy Trung Cộng rất dè dặt trong việc xâm chiếm Hoàng Sa. Trước sau họ chỉ đưa ra vỏn vẹn có ba chiến hạm không thuộc loại tối tân, có thể vì họ ngần ngại có sự can thiệp của Hoa Kỳ. Họ không đưa ra một lực lượng hùng hậu để đánh chiếm Hoàng Sa vì họ sợ nếu Hoa Kỳ phản ứng thì sẽ thành lớn chuyện khó xử. Ngoài ra họ còn sợ dư luận thế giới nữa.

Ông Trần Bình Nam nói, nhờ Hoa Kỳ can thiệp nên Trung Cộng đã nhanh chóng trao trả (qua ngả Hồng Kông) số quân nhân và dân chính trên đảo Hoàng Sa cùng một số ít thủy thủ đoàn của HQ-10 còn sống sót. Tôi không chắc có phải do Hoa Kỳ can thiệp không. Theo tôi, Trung Cộng đã chiếm được đảo Hoàng Sa rồi thì sá gì mấy chục mạng người mà không trao trả. Giữ để làm gì? Không cần Hoa Kỳ can thiệp họ cũng tự động dàn xếp để trao trả, vừa được tiếng nhân đạo vừa xoa dịu sự công phẫn của dân chúng Miền Nam Việt Nam và có thể của cả dư luận thế giới nữa.
Có sự bắt tay giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng để hai bên rảnh tay chống lại Nga Sô nhưng không chắc có sự thỏa thuận của Hoa Kỳ để Trung Cộng chiếm Hoàng Sa. Có thể một trong những lý do Trung Cộng chiếm Hoàng Sa là để thăm dò mức độ hợp tác giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng sau khi đã ngầm bắt tay nhau. Trung Cộng chỉ cần đưa tới Hoàng Sa ba chiếm hạm để thăm dò vừa Hoa Kỳ vừa Việt Nam Cộng Hòa.

Nếu Việt Nam Cộng Hòa sợ oai hùm của anh khổng lồ mà tháo lui thì họ không còn gì mong đợi hơn nữa. Còn nếu Việt Nam Cộng Hòa tận lực bảo vệ và đánh thắng họ thì họ sẽ chờ lúc khác, chắc cũng không lâu, nếu Hoa Kỳ không tỏ thái độ trong lần này. Còn giả sử nếu có sự thỏa thuận của Hoa Kỳ để Trung Cộng chiếm Hoàng Sa đi nữa thì dân nước Việt chúng ta có đánh hay không?

Nếu có ai hỏi Đại tá Ngạc hay ông Trần Bình Nam là những người thức thời, nhìn xa hiểu rộng, thì tôi chắc hai người này sẽ dõng dạc công khai tuyên bố: “phải đánh”. Còn đánh như thế nào, đồng tâm hiệp lực mà đánh hay đánh chiếu lệ, nửa nạc nửa mỡ, xem đồng đội như vật hy sinh, thì cái đó không phải là chuyện công khai…

Lê Văn Thự – 8 March 2004



Thứ Tư, 13 tháng 3, 2024

CUỘC TRUY KÍCH THẦN TỐC TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7

(ĐQT)-
CUỘC TRUY KÍCH THẦN TỐC TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7
Trong lịch sử cuộc kháng chiến của Dân tộc ta chưa có một cuộc rút chạy nào của địch lại thảm bại như cuộc rút chạy của Quân đoàn 2 địch trên đường 7 ( tháng 3/1975 ) . Cả một Quân đoàn với hàng vạn sỹ quan và binh lính cùng vài ngàn xe các loại , cùng rất nhiều phương tiện chiến tranh chỉ trong vòng một tuần đã gần như bị xoá sổ . Chiến thắng này đã góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của cả nước , giải phóng hoàn toàn Miền Nam , thống nhất đất nước . Trang Lính Tây Nguyên xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của Trần Tiến Hoạt - Sư đoàn 320 về trận truy kích tiêu diệt Quân đoàn 2 địch tháo chạy trên đường 7 - tháng 3/1975.

CUỘC TRUY KÍCH THẦN TỐC TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7

                                       




Sau khi Buôn Ma Thuột thất thủ và đặc biệt sau khi Sư đoàn 23 , lực lượng mạnh nhất của địch ở Quân khu 2 thất bại thảm hại sau khi tổ chức tái chiếm Buôn Ma Thuột . Ngày 14/3/1975 , Tổng thống Việt Nam cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu không còn cách nào khác phải ra lệnh rút quân khỏi Cao Nguyên . Để đảm bảo bí mật , bất ngờ và an toàn cho cuộc rút chạy ! Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 địch quyết định chọn đường số 7 , một con đường đã hư hỏng nặng và bỏ hoang từ lâu để rút chạy . Để đảm bảo cho cuộc rút lui an toàn, hữu hiệu, Bộ tư lệnh quân đoàn 2 địch đã điều liên đoàn 7 biệt động quân đang trấn giữ Tây Bắc thị xã Kon Tum "ưu tiên" cho rút trước về án ngữ “đoạn đường nguy hiểm nhất” từ Đông thị xã Cheo Reo đến đèo Tu Na. Hai liên đoàn biệt động quân số 6 và 23 đang chốt giữ Thanh An, Thanh Bình (đường 19 Tây) tăng cường cho lữ đoàn 2 kỵ binh bảo vệ tuyến đường từ ngã ba Mỹ Thạch đến quận lỵ Sơn Hòa, yểm trợ cho công binh mở đường bắc cầu qua sông Ba. Lực lượng địa phương quân của hai tỉnh Phú Bốn, Phú Yên cũng được huy động tối đa vào công việc “phối trí bảo vệ lộ trình 7”.
Cuộc rút lui chiến lược lớn nhất của quân ngụy Sài Gòn bắt đầu. Suốt đêm 14 rạng ngày 15-3, sư đoàn 6 không quân liên tục chở quân và gia đinh (gồm cả người và đồ đạc) về Nha Trang. Trên đường phố thị xã Kon Tum và Plei Ku xe nhà binh chạy hỗn loạn. Hàng loạt đồn bốt , công sở bỗng bốc cháy ngùn ngụt sáng rực cả một vùng. Dân chúng đã biết cuộc “bỏ của chạy lấy người” của quân đoàn 2, cũng vội vã hè nhau chạy theo. Đường 14 Nam thị xã Pleo Ku đến ngã ba Mỹ Thạch (đầu đoạn đường 7) bỗng chật ních người và xe cộ các loại.
Trong những giờ phút đầy biến động đó, những tin tức khác thường ở hai thị xã Kon Tum và Plei Ku đều được đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh tại Mặt trận Tây Nguyên và Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên theo dõi chặt chẽ. Tối 15-3, đại diện Bộ Tổng Tư lệnh gọi điện thông báo cho Bộ Tư lệnh chiến dịch biết có hiện tượng địch rút bỏ Kon Tum , Plei Ku và chỉ thị khẩn trương chuẩn bị mọi mặt ngăn chặn và truy kích cuộc rút chạy này . 20h ngày 16/3 , Bộ Tổng tư lệnh thông báo chính thức cho Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên : Địch đã rút chạy theo đường 7 , tổ chức truy kích ngay !
Căn cứ thực tế tình hình phát triển chiến dịch, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định sử dụng Sư đoàn 320 đứng chân ở khu vực Thuần Mẫn được tăng cường một tiểu đoàn thiết giáp, một cụm pháo binh chiến dịch nhanh chóng chặn địch ở Đông Nam Cheo Reo, tiêu diệt quân đoàn 2 rút chạy . 21 giờ ngày 16-3, cả Sư đoàn 320 lao vào cuộc truy kích thần tốc kiên quyết không cho địch chạy thoát.
Cho đến bây giờ, mỗi khi nhắc lại cuộc chiến đấu hào hùng đó, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 320 vẫn chưa lý giải được cặn kẽ tại sao lúc đó với một đội hình rất phân tán: Trung đoàn 48 (thiếu Tiểu đoàn 3) đang truy quét địch ở Cẩm Ga - Thuần Mẫn; Trung đoàn 64 (thiếu Tiểu đoàn 9 đang chốt cắt đường 7B ở Tây thị xã Cheo Reo 10 km) đang đánh địch ở Đạt Lý, Phước An; Trung đoàn 9 đánh địch ở Kênh Săn (Phú Nhơn), hầu hết cách thị xã Cheo Reo từ 50 đến 130km mà họ lại có thế cơ động (bộ phận gần: 1 đêm, bộ phận xa: 1 ngày 1 đêm) đến địa điểm chiến đấu (đúng thời gian quy định, lập lá chắn thép khóa chặt bọn địch trong thung lũng Cheo Reo để tiêu diệt. Chỉ biết rằng, sau khi nhận lệnh truy kích địch trên đường 7, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 320 không còn thời gian để ngồi mà tính toán nữa. Tất cả phải hành động, hành dộng thật khẩn trương, kiên quyết thì mới có thể giành được thắng lợi. Nếu để địch chạy thoát về đồng bằng là có tội với Tổ quốc, với nhân dân, với bao chiến sĩ đã đổ máu hy sinh trên chiến trường này.
Cuộc truy kích thần tốc trước hết diễn ra ở Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 64) – những người có công đầu trong việc chốt chặn tập đoàn quân địch rút chạy. 19 giờ tối 16-3, sau khi nhận được lệnh của Sư đoàn trương Kim Tuấn: “Bằng bất cứ giá nào sáng ngày 17-3, tiểu đoàn phải có mặt ở chân đèo Tu Na để chặn địch”, cả tiểu đoàn lập tức lao vào cuộc chạy đua với quân địch. Mặc đêm tối, đường xa, dốc đá tai mèo dựng đứng, bộ đội vẫn kiên trì - động viên nhau khẩn trương vận động. Nhiều đoạn rừng rậm, khe sâu bộ đội phải dùng nứa khô, dép cao su làm đuốc soi dường để vượt qua. Địch rút chạy bằng sức 1 mạnh cơ giới. Ta đuổi địch bằng “đôi chân vạn dặm”. Tới trưa ngày 17-3, Đại đội 11 (Tiểu đoàn 9) đã đến vị trí quy định chuẩn bị nổ phát súng đầu tiên trong cuộc truy kích dịch của Sư đoàn.
Cũng trong đêm ngày 16 và ngày 17-3, cơ quan hậu cần chiến dịch và Sư đoàn 320 đã huy động hơn 100 xe ô tô cấp tốc chở Trung đoàn 64 và một số đơn vị trực thuộc đang làm nhiệm vụ ở hướng Đạt Lý, Buôn Hồ về ngã ba Thuần Mẫn . Thiếu ô tô, bộ đội chạy bộ. Xe chạy hết tốc lực. Đổ quân xuống nơi quy định, xe lập tức quay lại đón bộ phận khác đang chạy bộ. Trên hướng Bắc, Trung đoàn 9 sau khi chiếm quận lỵ Phú Nhơn đã nhanh chóng hình thành mũi tiên công phía Bắc xuống thị xã Cheo Reo. Trung đoàn 48 đã chủ động, tích cực đưa Tiểu đoàn 2 theo đường 7B áp sát phía Tây Cheo Reo...
Sáng ngày 17-3, một số xe địch chạy lọt về Củng Sơn nhưng đại bộ phận tập đoàn rút chạy của quân đoàn 2 vẫn chưa chạy thoát. Trên đường 7 hàng nghìn xe quân sự của địch nối đuôi nhau ùn ùn đổ về thị xã Cheo Reo. Chúng chạy hàng tư, hàng năm lấn ra cả hai bên bìa rừng. Trên trời máy hay hộ tống trút bom, bắn rốc két, ngăn chặn phía sau, dọn đường phía trước và hai bên.
Đoàn xe địch qua khỏi thị xã Cheo Reo 4km gặp trận địa phục kích đầu tiên của Tiếu đoàn 9 (Trung đoàn 64), cả đoàn xe nhào ra hai bên đường, chạy vào rừng. Đến chiều ngày 17-3, “cánh cửa thép” phía Đông Nam thung lũng Cheo Reo đã được khóa chặt. Lực lượng cơ bản của tập đoàn rút chạy đã bị nhốt chặt như cá nằm trong giỏ.
“Thị xã Cheo Reo, người và xe các loại chật ních không có chỗ chen chân. Nạn cướp giật hoành hành. Không khí ngột ngạt đến nghẹt thở. Mờ sáng ngày 18, địch củng cố lại đội hình, dùng hai thiết đoàn xe tăng mở đường chạy về Củng Sơn. Tiểu đoàn 9 ngoan cường, nổ súng dữ dội vào đoàn xe địch. Xe tăng, xe bọc thép liều chết mở hết tốc độ lao qua cầu Ea Nu. cầu sập. Xe và lính rơi xuống sông. Đường tắc nghẽn, địch bỏ xe tản vào rừng, lội sang sông Ba. Lúc này lực lượng lớn của Sư đoàn 320 đuổi kịp đánh thốc tới. Hàng trăm xe quân sự địch cháy nằm ngổn ngang hai bên đường và bãi sông”. Trong trận đánh táo bạo, quyết liệt này, Tiểu đội trưởng Nguyễn Vi Hợi, Đại đội 9 (Trung đoàn 64) nổi lên như một ngôi sao sáng chói. Qua hai ngày chiến đấu không biết mệt mỏi, một mình anh đã bắn cháy 12 xe bọc thép, diệt 20 tên, cùng đồng đội bắt sống 120 tên khác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Cùng trong ngày 18-3, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 48 đã cắt đứt đoạn đường từ Phú Thiện đi Cheo Reo, vây diệt 1 tiểu đoàn bảo an ở Cầu Cháy.
Thấy quân lính bị đánh quyết liệt cả bốn mặt, bọn chỉ huy địch đã cho 4 phi đội A37 và T28 oanh tạc bảo vệ đội hình. Nhưng không quân ngụy đã cuống cuồng ném bom vào liên đoàn 7 biệt động quân, làm chết và bị thương gần một tiểu đoàn, phá hủy một số xe quấn sự.
Cuộc truy kích thần tốc quân đoàn 2 ngụy của các Chiến sĩ Sư đoàn 320 mới bước sang ngày thứ hai đã thu được thắng lợi giòn giã và làm cho bọn địch hết sức nguyố. Đến nỗi tên chuẩn tướng Pham Duy Tất chỉ huy cuộc hành quân rút chạy đã phải kêu lên: “Tổn thất quá nặng nề gần như tan rã”|.
8 giờ ngày 18-3, để tạo thế tiêu diệt toàn hộ quân địch rút chạy, Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 320 nhanh chóng đánh chiếm thị xã Cheo Reo làm bàn đạp.
Chấp hành triệt để chỉ thị trên. 11 giờ ngày 18-3, Sư đoàn cho ba trận địa pháo cơ giới nhất loạt bắn phá các mục tiêu quan trọng trong thị xã. 16 giờ, từ hai hướng, Trung đoàn 48 và một bộ phận của Trung đoàn 64 mở các đợt tiến công vào sân bay, tòa hành chính, khu cố vấn Mỹ, tiểu khu Phú Bổn, trại lính Ngô Quyền, đài phát thanh... Khoảng 24 giờ, thị xà Cheo Reo, tỉnh lỵ Phú Bổn hoàn toàn giải phóng. Ta tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và hầu hết phương tiện chiến tranh của quân đoàn 2 và một số đơn vị địch.
Trong cơn nguy khốn, Phạm Văn Phú phải ra lệnh cho lính bỏ vũ khí, khí tài quân dụng nặng đi vòng rừng chạy khỏi Cheo Reo. Bọn lính còn lại phần lớn ra hàng, phần còn lại lột hết quần áo lính, mặc dân sự và bắt dân chạy trốn theo để làm bia đỡ đạn cho chúng. Nhưng một lần nữa với truyền thông “giúp dân đánh giặc” với sự thông minh, khôn khéo, bộ đội Sư đoàn 320 đã chia địch ra vây bắt, thanh lọc, bảo vệ an toàn cho nhân dân, đồng thời tuyên truyền kêu gọi nhân dân không chạy theo địch nhanh chóng trở về quê quán làm ăn.
Phát huy thắng lợi đã giành được, chỉ huy Sư đoàn 320 cho Trung đoàn 64 được tăng cường 1 tiểu đoàn thiết giáp truy đuổi lực lượng còn lại trên đoạn đương Phú Túc, Củng Sơn.
Với khí thế chiến thắng và quyết tâm không để địch chạy thoát về đồng bằng, ngày 20-3, các chiến sĩ Trung đoàn 64 và các đơn vị tăng cường đã đuổi kịp lực lượng địch chạy trước và tổ chức bao vây ngay. 17 giờ ngày 21-3, ta hoàn toàn làm chủ quận lỵ Phú Túc. 10 giờ ngày 22-3, ta làm chủ Ga Pui. Ngày 23-3, Trung đoàn 64 tiến sát quận lỵ Củng Sơn điểm co cụm cuối cùng của 6.000 tàn binh có 40 xe tăng, xe thiết giáp che chở. Ngày 24-3, được 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương Phú Yên phối hợp, Trung đoàn 64 và lực lượng thiết giáp tăng cường đã mở đợt tiến công quyết liệt, liên tục chia cắt tiêu diệt từng mảng quân địch. Đến 16 giờ, trước sức tiến công dũng mãnh của ta, đội quân ô hợp không chịu nổi phá chạy tán loạn. Đến 18 giờ cùng ngày, quận lỵ Củng Sơn hoàn toàn được giải phóng.
Thế là, sau một tuần truy kích thần tổc (17 - 24.3), Sư đoàn 320 và các lực lượng tăng cường của trên đã chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh chiến đấu của Bộ Tư lệnh chiến dịch, vượt qua mọi khó khăn gian khổ về không gian, thời gian, tiêu diệt gọn tập đoàn quân của quân đoàn 2 rút chạy, bao gồm 4 liên đoàn biệt động quân (6, 7, 23, 25), trung đoàn xe thiết giáp (3, 19, 21), đại bộ phận Sư đoàn 6 không quân và 1 tiểu đoàn quân cộng hòa, bắt gần 1 vạn tên, thu và phá hủy 1.400 xe các loại (có 90 xe tăng, 34 xe M113), giải phóng hàng chục vạn dân.
Thắng lợi của cuộc truy kích thần tốc trên đường 7 không chỉ nói lên sự trưởng thành vượt bậc về tinh thần đoàn kết hiệp đồng lập công tập thể; ý chí kiên cường, táo bạo, nắm bắt thời cơ nhạy bén và sử dụng sức mạnh thời cơ tới mức độ hoàn hảo, mà còn chứng tỏ khả năng biết vận dụng sáng tạo nghệ thuật tác chiến chiến dịch, nổi bật nhất là công tác trinh sát bám địch, công tác chỉ huy hiệp đồng tác chiến trong vận động truy kích và phục kích chốt chặn quân địch của toàn thể cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 320 nói riêng và Binh đoàn Tây Nguyên nói chung.
Thắng lợi to lớn toàn diện trên đường 7 đã đánh bại hoàn toàn âm mưu về đồng bằng co cụm để giữ vùng duyên hải đông dân và trù phú của Mỹ - ngụy. Cùng với chiến thắng Buôn Ma Thuột, Phước An, chiến thắng Đường 7 - Cheo Reo trong Chiến dịch Tây Nguyên đã góp phần mở ra thời cơ hết sức thuận lợi để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta bước vào cuộc Tổng tiến công chiến lược mở Chiến dịch Trị Thiên - Huế, Chiến dịch Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phỏng hoàn toàn miền Nam thông nhất Tố quốc.

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2024

Nhóm 72 phản Đảng

(ĐQT)-Nhóm 72 hay Nhóm Kiến nghị 72 (KN72) là Nhóm được đặt tên theo Kiến nghị 72 là kiến nghị góp ý Sửa đổi Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992, do 72 trí thức người Việt Nam soạn thảo và đề nghị (đề ngày 19/1/2013).
Thực hiện Chỉ thị số 22-CT/T.Ư ngày 28/12/2012 Của Bộ Chính trị về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân tham gia góp ý đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, cả hệ thống chính trị và toàn dân đã tích cực tham gia vào các việc tổ chức lấy ý kiến của các cấp, các ngành, các địa phương và đơn vị trong cả nước tổ chức.
Hàng triệu lượt ý kiến tâm huyết với vận mệnh của đất nước được góp ý thẳng thắn, dân chủ và cởi mở, mang tính xây dựng với mong muốn sắp đến nước ta có một bản Hiến pháp mới hoàn chỉnh, thể hiện đầy đủ quyền và lợi ích của đất nước, của nhân dân.
Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta thấy trên diễn đàn mạng xuất hiện một số tổ chức, cá nhân lợi dụng vấn đề dân chủ trong đợt sinh hoạt chính trị này để đưa ra những quan điểm sai trái, hoàn toàn không có tính xây dựng. Nổi lên là một số người do Nguyễn Đình Lộc (sinh năm 1935), ở huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An và từng là Bộ trưởng thứ hai của Bộ Tư pháp, giai đoạn 1992-2002 cầm đầu.
Vào ngày 4-2-2013, Nguyễn Đình Lộc với vai trò là người cầm đầu “nhóm kiến nghị 72”, gọi là “nhóm nhân sĩ, trí thức”, đã trao kiến nghị sửa Hiến pháp tại Văn phòng Ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Đây thực sự là nhóm chống Đảng, chống Nhà nước. 72 tên “nhân sĩ, trí thức” chống Đảng phần lớn trong số đó là nhân sĩ, trí thức, trong đó nhiều người đã từng có vị trí cao trong xã hội, và có người đang tại chức bao gồm:
1. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
2. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu, Hà Nội
3. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí Minh, TP HCM
4. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM
5. Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
6. Tống Văn Công, nguyên Tổng biên tập báo Lao động, TP HCM
7. Phạm Vĩnh Cư, nhà nghiên cứu, Hà Nội
8. Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội
9. Lê Đăng Doanh, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
10. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
11. Nguyễn Văn Dũng, nhà văn, võ sư, Huế
12. Hồ Ngọc Đại, GS TS, nhà giáo, Hà Nội
13. Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hồ Chí Minh khóa 4, 5, TP HCM
14. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
15. Lê Hiền Đức, Giải thưởng Liêm chính 2007, Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Hà Nội
16. Phan Hồng Giang, TSKH, Hà Nội
17. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng công ty Du lịch Thành phố (Saigontourist), TP HCM
18. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
19. Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội
20. Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội
21. Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
22. Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
23. Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, Thành uỷ TP Hồ Chí Minh, TP HCM
24. Nguyễn Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thừa Thiên - Huế, Chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa Thiên - Huế
25. Nguyễn Văn Hồng (tức Cung Văn), nguyên Tổng Thư ký Ban chấp hành Sinh viên đoàn Đại học Văn khoa Sài Gòn 1964-1965, Đà Nẵng
26. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
27. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, Đà Nẵng
28. Trần Ngọc Kha, nhà báo, Hà Nội
29. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM
30. Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, nguyên Phó Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
31. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới, TP HCM
32. Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
33. Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội
34. Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương, Hà Nội
35. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
36. Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
37. Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội
38. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
39. Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An
40. Hạ Đình Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
41. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
42. Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn, Hà Nội
43. Phạm Đức Nguyên, PGS TS, giảng viên cao cấp Đại học, Hà Nội
44. Hồ Ngọc Nhuận, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc chính trị nhật báo Tin sáng, TP HCM
45. Nguyễn Hữu Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế
46. Hoàng Xuân Phú, GS Viện Toán học, Hà Nội
47. Trần Việt Phương, nguyên trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
48. Nguyễn Đăng Quang, nguyên Đại tá Công an, Hà Nội
49. Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
50. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
51. Trần Đình Sử, GS TS, Hà Nội
52. Nguyễn Trọng Tạo, nhà văn, Hà Nội
53. Lê Văn Tâm, TS, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Nhật Bản, Nhật Bản
54. Trần Công Thạch, hưu trí, TP HCM
55. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
56. Trần Thị Băng Thanh, PGS TS, Hà Nội
57. Lê Quốc Thăng, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
58. Đào Tiến Thi, thạc sĩ, Hà Nội
59. Nguyễn Minh Thuyết, GS TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Hà Nội
60. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
61. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
62. Nguyễn Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
63. Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
64. Hoàng Tụy, GS, Viện Toán học, nguyên Chủ tịch Viện IDS, Hà Nội
65. Lưu Trọng Văn, nhà báo, TP HCM
66. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
67. Nguyễn Viện, nhà văn, TP HCM
68. Nguyễn Hữu Vinh, doanh nhân, Hà Nội
69. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
70. Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, Huế
71. Nguyễn Đông Yên, GS TS, Viện Toán học, Hà Nội
72. Nguyễn Phú Yên, nhạc sĩ, TP HCM
Nhóm người này đã tự xưng trong bản kiến nghị, rằng: “…chúng tôi, những người Việt Nam ký tên dưới đây… nói lên ý kiến để nhân dân ta có một Hiến pháp bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và sự phát triển bền vững của đất nước, mang lại tự do hạnh phúc cho các thế hệ hiện tại và tương lai…”. Tất nhiên là nhóm người này không quên gửi kèm bản “Dự thảo Hiến pháp 2013” - gọi là tài liệu để tham khảo, thảo luận. Điều muốn nói ở đây là trong nội dung của bản kiến nghị này, có nhiều quan điểm sai trái mà lâu nay một số người thuộc nhóm bất mãn chế độ, cơ hội chính trị, phản động ở cả trong và ngoài nước được sự “tiếp sức” của các thế lực cực đoan, thù địch sử dụng như là một chiêu bài hòng chống phá Đảng và Nhà nước ta. Theo đó, những nội dung chính của kiến nghị chống Đảng này là:

1. Đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Điều 4 của Hiến pháp, với lý lẽ vừa hết sức nguỵ biện, vừa suy diễn một cách tùy tiện, có tính công kích nói xấu Đảng ta. Ai cũng hiểu rất rõ rằng, lịch sử cách mạng Việt Nam đã ghi nhận toàn bộ quá trình thực thi nội dung các bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 đều gắn liền với những thắng lợi to lớn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng của cách mạng nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Điều đó cho thấy rất rõ Đảng ta đã, đang và chắc chắn sẽ thể hiện đầy đủ vai trò là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây là sự thật lịch sử hoàn toàn không thể phủ nhận. Do vậy, việc đòi xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp là một hành động xét về mặt đạo lý thuần tuý khác gì là vô ơn, bội nghĩa cần phải lên án mạnh mẽ. Chắc chắn những nhân sĩ, trí thức chân chính không có lối hành xử thiếu nhân văn như vậy!
2. Đòi phân chia sự lãnh đạo duy nhất của Đảng, bằng cách yêu cầu thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, với lập luận “ru ngủ” những ai nhẹ dạ, mất cảnh giác như: “Việc Đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước”.
Với thái độ hết sức cầu thị, Đảng ta đã từng nghiêm túc thừa nhận rằng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng cũng có lúc phạm phải những sai lầm, khuyết điểm. Đảng đã sớm nhận ra những sai lầm, khuyết điểm ấy bằng quyết tâm chính trị của mình, nhanh chóng tìm ra các giải pháp khắc phục, từng bước củng cố niềm tin nhân dân đối với Đảng. Từ sau ngày hoà bình, thống nhất đất nước cho đến năm 2013 đã 38 năm trôi qua, cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đưa đất nước ta phát triển toàn diện; từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, khó khăn, thiếu thốn trăm bề, đã vươn lên mạnh mẽ thoát khỏi nhóm các nước nghèo của thế giới, để trở thành một quốc gia đang phát triển và hội nhập quốc tế; nhân dân ta thực sự có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Vì vậy, chẳng việc gì phải có nhiều đảng để rồi đấu đá, xâu xé, tranh giành nhau quyền kiểm soát xã hội, xảy ra nội chiến như nhiều nước ở quanh ta và trên thế giới.
3. Đòi phi chính trị đối với lực lương vũ trang (LLVT), với lập luận hết sức đơn điệu và lạc lõng là: “LLVT phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào như quy định tại Điều 70 của Dự thảo”, sau đó họ ngang nhiên tuyên bố: “Chúng tôi yêu cầu bỏ quy định LLVT phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”. Đòi hỏi phi lý này của nhóm KIẾN NGHỊ 72 là thật lố bịch! Ai cũng biết rằng LLVT được sinh ra làm nhiệm vụ là công cụ chuyên chính sắc bén, được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tế lịch sử cách mạng nước ta cho thấy, nếu không có LLVT tuyệt đối trung thành thì liệu đất nước Việt Nam có được như hôm nay? Từ sau chiến thắng mùa Xuân năm 1975 đến nay, dưới sự lãnh đạo sâu sát, sáng tạo và kịp thời của Đảng, LLVT ta đã đánh tan các cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ toàn vẹn biên cương của Tổ quốc, sau đó liên tiếp dẹp các vụ bạo loạn mang sắc màu chính trị do các thế lực thù địch trong nước cấu kết với bọn phản động nước ngoài thực hiện. Đó là bài học xương máu, cảnh tỉnh cho chúng ta về sự trung thành của quân đội đối với Đảng. Hay nói cách khác rằng, LLVT Việt Nam cần luôn đặt dưới sự lãnh đạo, tuân thủ đường lối quân sự và phương châm chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ Quốc do Đảng ta định hướng. Nếu thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng nghĩa với việc LLVT ta sẽ sớm hoặc muộn sẽ mất phương hướng chiến đấu, không xác định được đối tượng tác chiến, chắc chắn sẽ thất bại trên chiến trường.
Nhóm KN72 xướng danh: “…Chúng tôi, những người Việt Nam ký tên dưới đây…”, thật là một kiểu danh xưng vô thưởng vô phạt, bởi chắc chắn họ không đủ tư cách đại diên cho hơn 90 triệu người Việt Nam, vậy họ đại diện cho bao nhiêu người? Điều đó đủ thấy kẻ giấu mặt đứng sau nhóm KN72 không dám xưng gì hơn, đồng nghĩa với việc sợ đối mặt với nhân dân, những người làm chủ vận mệnh đất nước, mặt khác họ sợ đối mặt với sự thật lịch sử hào hùng của dân tộc mà họ đang rắp tâm bôi nhọ, xuyên tạc một cách trơ trẽn. Họ chính là những người với những lý do khác nhau đang bất mãn với chế độ, được các thể lực thù địch bơm thổi kích động, được bọn phản động trong và ngoài nước mua chuộc, lôi kéo, cổ suý để thực hiện chiêu bài chiến tranh không tiếng súng vốn được dàn dựng khá công phu từ lâu, hòng chống phá Đảng và Nhà nước ta, chống lại sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nhân dân ta.
Ảnh: Nhómm 15 người đại diện đã đến trao KN72 trực tiếp cho UBDTSĐHP1992 ngày 4 tháng 2 năm 2013)
Nguyễn Quang A, Phan Hồng Giang, Lê Công Giàu, Chu Hảo, Phạm Duy Hiển, Tương Lai, Phạm Chi Lan, Hồ Uy Liêm, Nguyễn Đình Lộc, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyên Ngọc, Hoàng Xuân Phú, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Trung,Tô Nhuận Vỹ