THẤT BẠI trong khâu chuẩn bị là chuẩn bị cho một THẤT BẠI!

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2019

Lần lại hồ sơ dòng họ Ngô Đình: Ngô Đình Khả là ai?


Khi làm Phó tướng cho viên quan khét tiếng Nguyễn Thân ra Bắc đánh dẹp nghĩa quân Cần Vương ở Vụ Quang, Ngô Đình Khả đã gây ra nhiều tội ác. Lúc đã dồn người anh hùng Phan Đình Phùng vào thế cùng, Ngô Đình Khả đang tâm theo lệnh Nguyễn Thân đào mả lấy xác cụ Phan trộn thuốc súng, bỏ vào súng thần công bắn xuống dòng sông Lam…
Cách đây gần 45 năm, vào tháng 11/1963 tại Sài Gòn đã xảy ra một cuộc đảo chính đẫu máu do một số chính khách và tướng lĩnh quân đội Sài Gòn tiến hành với sự giật dây và hỗ trợ của các quan thầy tới từ bên kia đại dương, giết chết những  đồng minh đã trở nên không còn hữu dụng nữa của Washington là Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Đằng sau sự việc này cho tới nay vẫn còn không ít điều bí ẩn và những thông tin bất nhất.
Cũng còn nhiều vấn đề nằm trong bóng tối như thế là hành tung của dòng họ Ngô Đình, đặc biệt là ông Ngô Đình Khả, người cha đã từng sinh ra hai anh em họ Ngô khét tiếng của cái gọi là nền "đệ nhất cộng hòa" ở miền Nam nước ta những thập niên giữa thế kỷ trước. Chính từ tư duy và cách tham chính của ông Ngô Đình Khả về sau đã dẫn tới những tai họa cho cả một dòng họ đã chọn con đường chỉ hướng tới phương Tây làm cứu rỗi.
Ông Ngô Đình Khả, tên theo đạo là Micae, sinh năm 1857 trong một gia đình Công giáo ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình và  thời nhỏ cũng được giáo dục theo những nguyên tắc chung của Nho giáo. Đồng thời với việc này, cậu bé Khả thường được cha đẻ là Giacôbê Ngô Đình Niêm cho đi giúp lễ với một vị linh mục Pháp ở họ đạo Mỹ Duyệt Hạ (cũng ở huyện Lệ Thủy).
Năm 1870, Ngô Đình Khả được linh mục Caspar (Lộc) cho đi học tại Đại chủng viện của dòng Thừa sai Paris tại đảo Paulo Pinang, Mã Lai (Malaysia ngày nay). Dùi mài kinh đạo cũng sáng dạ như ai nên trở về nước, Ngô Đình Khả được phân dạy môn triết tại Đại chủng viện giáo phận Huế trong thời gian thử thách để được chọn lên chức linh mục.
Tuy nhiên, số phận của ông đã hẩm hiu vì qua nhiều năm, ngay cả khi không ít học trò được thụ phong linh mục nhưng Ngô Đình Khả vẫn không được bề trên ngó ngàng tới. Thế là năm 1878, Ngô Đình Khả đành rời tu viện làm giáo dân bình thường và lấy vợ.
Biết rõ vốn ngoại ngữ của Ngô Đình Khả, linh mục chính xứ Phú Cam là Eugène Marie - Joseph Allys (1852-1936), đã giới thiệu Ngô Đình Khả nhận thông dịch tài liệu tiếng Latinh và tiếng Pháp cho lính Pháp làm phương kế sinh nhai…
Ông cũng được làm thông ngôn cho các quan chức thực dân với triều đình Nguyễn nên có nhiều mối quan hệ tế nhị. Những mối quan hệ đó đã giúp Ngô Đình Khả có được ít nhiều hào quang nào đó trong con mắt của triều đình Huế, vốn đang rất lép vế trước những kẻ ngoại bang da trắng.
Và vì thế nên vua Đồng Khánh đã giao cho Ngô Đình Khả chức tổng chỉ huy binh đội của triều đình. Tuy nhiên, vốn chẳng có sở trường gì về quân sự nên chỉ sau bốn tháng, Ngô Đình Khả đã phải rời khỏi chức vụ này và mượn cớ bà mẹ bị lâm trọng bệnh, đã xin từ chức để thực hiện chữ hiếu cho một công đôi việc.
Thất bại lần đầu nhưng Ngô Đình Khả vẫn chưa nguôi mộng làm quan. Khi vua Thành Thái lên ngôi, Ngô Đình Khả với danh vọng của một người từng tu nghiệp đạo Tây đã tìm được cửa để trở thành một quan chức giáo dục của triều đình.
Sở học trường dòng đã giúp cho Ngô Đình Khả làm được không ít việc trong những nỗ lực xây dựng Trường Quốc học Huế, kết hợp truyền bá văn hóa phương Tây với văn hóa bản địa. Những kẻ bảo hộ da trắng dĩ nhiên là rất tâm đắc với việc có được một nhân vật thân tín theo đạo Thiên Chúa ở trong chính quyền phong kiến nên đã không tiếc sức phù trợ cho Ngô Đình Khả. Triều đình nhà Nguyễn cũng trọng dụng Ngô Đình Khả. Ông ta từng làm đến chức Cơ mật viện, quan hàm chánh tứ phẩm, rồi được thăng đến Thượng thư Bộ Công…
Có nguồn tư liệu cho rằng, Ngô Đình Khả cũng thấm thía được nỗi gian nan của những thường dân nên khi tiếp thu được ít nhiều những tư tưởng văn minh của phương Tây cũng muốn ít nhiều cải cách cho đỡ cơ cực nước Nam. Và ông cũng muốn tìm những phương thức phát triển hòa bình để tìm lại nền độc lập cho dân tộc.
Có giai thoại kể về việc vua Thành Thái bị thực dân Pháp vu cho bị bệnh điên và ép triều đình  Huế ký sớ xin vua thoái vị rồi đưa qua an trí tại đảo Réunion. Hầu hết các vị thượng thư khác đều ký vào tờ sớ này nhưng chỉ duy nhất Phụ đạo đại thần Ngô Đình Khả không ký. Câu "Đầy vua không Khả" xuất hiện là vì thế. Sau vụ này, Ngô Đình Khả dường như đã bị bạc đãi và chỉ tới triều vua Khải Định "con rồng tre" mới lại được phục hồi quyền lợi, được truy lĩnh đầy đủ lương bổng của 12 năm bị huyền chức…
Tuy nhiên, có nhiều cứ liệu lịch sử cho thấy, Ngô Đình Khả đã không vượt qua được những hạn chế cố hữu của tầng lớp quan lại thượng lưu dưới thời Pháp thuộc và trong những tình huống cần quyết liệt lựa chọn giữa vinh thân phì gia và cứu dân cứu nước, đã cam tâm làm tay sai cho ngoại bang, sát hại những người yêu nước chân chính.
Khi làm Phó tướng cho viên quan khét tiếng Nguyễn Thân ra Bắc đánh dẹp nghĩa quân Cần Vương ở Vụ Quang (căn cứ kháng chiến của Phan Đình Phùng), Ngô Đình Khả đã gây ra nhiều tội ác. Lúc đã dồn người anh hùng Phan Đình Phùng vào thế cùng, Ngô Đình Khả đang tâm theo lệnh Nguyễn Thân đào mả lấy xác cụ Phan trộn thuốc súng, bỏ vào súng thần công bắn xuống dòng sông Lam… --PageBreak--
Một số nguồn sử liệu cho rằng, Ngô Đình khả phải chịu trách nhiệm chính trong việc thực dân Pháp biến khu vực Trấn Bình Đài ở Huế thành nhà thờ. Vào đầu thế kỷ XIX, khi xây dựng kinh thành, nhà Nguyễn lập Trấn Bình Đài này để bảo vệ Kinh đô từ phía Đông Bắc. Những đơn vị lính Pháp đã tìm rất nhiều cách chiếm lĩnh khu vực trọng yếu này trong quá trình đánh thành Huế.
Trong Hiệp ước Giáp Thân (6/1884), ở điều 5, thực dân Pháp ép nhà Nguyễn phải nhượng Trấn Bình Đài cho lính Pháp đóng quân. Cái tên Đồn Mang Cá có từ đó. Khi kinh đô Huế thất thủ năm 1885, lính Pháp đã đánh chiếm khu vực Linh Hựu Quán và một số công trình khác của triều đình.
Tới năm 1886, viên toàn quyền Paul Bert được “quân sư” Trương Vĩnh Ký tư vấn, lại ép vua Đồng Khánh nhượng tiếp khu đất nằm giữa trấn Bình Đài và Linh Hựu Quán để chúng xây dựng thêm doanh trại, đồn bốt, nhà thương, kho hậu cần... Linh Hựu Quán bị triệt giải từ đó. Và cũng từ đó người dân ở Huế gọi khu nhượng địa mới này là Mang Cá Lớn, khu Trấn Bình Đài cũ là Mang Cá Nhỏ.
Lúc bấy giờ có một số người dân theo đạo Thiên Chúa ở thôn Cự Lại (vùng Thuận An) lên tá túc xung quanh doanh trại Pháp ở khu Mang Cá, kiếm kế sinh nhai bằng nghề bồi bếp, buôn bán... Lấy lý do giúp đỡ con chiên, linh mục Joseph Allys, vốn rất quen thuộc với Ngô Đình Khả, xin xây một nhà thờ trên đất Linh Hựu Quán để giáo dân "có nơi đọc kinh sớm tối, lễ lạt Chúa nhật". Nhưng vì luật lệ của nhà Nguyễn lúc đó cấm xây dựng nhà thờ trong khu vực kinh thành nên việc này đã không được xử lý.
Mãi tới khi Ngô Đình Khả được ngồi ở chức chỉ huy thị vệ dưới triều vua Thành Thái, nhờ sự thẽ thọt của ông ta nên một nhà thờ Thiên Chúa giáo mới được xây dựng trên đất của Linh Hựu Quán. Đó là nhà thờ Họ Cầu Kho. Thoạt tiên, đó chỉ là một căn nhà lợp tranh tre". Mãi tới khi Ngô Đình Diệm cầm quyền ở miền Nam, nhà thờ cũ  mới được cải tạo thành Trường Tín Đức (ngày nay là Trường THCS Thuận Lộc) và một nhà thờ mới được xây dựng khang trang vào đúng vị trí Linh Hựu Quán ngày xưa. Đó là nhà thờ Giáo xứ Tây Linh trên đường Thái Phiên, phường Thuận Lộc ngày nay…
Người vợ đầu của ông Ngô Đình Khả là một giáo dân, tên là Madelena Chĩu. Tuy nhiên, hương lửa nồng đượm không lâu vì bà Chĩu phận bạc, mất sớm. Tới năm 1889, ông Ngô Đình Khả tục huyền với một nữ giáo dân khác tên là  Anna Phạm Thị Thân, quê ở Phú Cam, Hương Thủy. Hai người đã sinh ra được 9 người con: 6 trai  và ba gái (theo thứ tự: Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Thị Giao, Ngô Đình Thị Hiệp, Ngô Đình Thị Hoàng, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Ngô Đình Luyện).
Ông Ngô Đình Khả được coi là người biết cách giáo dục con cái nghiêm khắc, kết hợp niềm tin Thiên Chúa giáo với những giáo lý Nho học.  Tuy nhiên, cách giáo dục này đã không giúp cho các con của ông có được cuộc sống yên ổn sau này.
Ông Ngô Đình Khả qua đời năm 1923 vì bệnh phổi. Bà Phạm Thị Thân qua đời tại Sài Gòn ngày 2/1/1964, trước khi người con thứ tám Ngô Đình Cẩn bị giết hơn ba tháng. Trưởng nam của dòng họ Ngô, Tổng đốc Ngô Đình Khôi và con trai của ông ta là Ngô Đình Huân đã bị chết năm 1945. Người con trai thứ ba  là Ngô Đình Diệm, sinh năm 1901 tại Huế, từng được vua Bảo Đại bổ nhiệm chức thượng thư năm 1933…
Người con thứ bảy, Ngô Đình Nhu, tu học ở Ecole des Chartes Paris, được coi là trầm tĩnh, ít nói, lạnh nhạt bên ngoài. Ngô Đình Nhu từng là có vấn tối cao của Tổng thống Ngô Đình Diệm và đã bị quân đảo chính giết chết cùng anh trai tháng 11/1963.
Theo những người thân cận, khi ở trên đỉnh cao quyền lực, Ngô Đình Nhu "làm việc âm thầm, cần mẫn, hút thuốc liên hồi (mỗi lần nửa điếu, do sự can ngăn của vợ) trong một văn phòng không rộng, đầy ngập sách vở, ánh sáng mờ mờ, ở tầng dưới Dinh Độc lập, có gắn máy lạnh và interphone với bên ngoài". Săn bắn là thú tiêu khiển ưa chuộng của Ngô Đình Nhu và đồng thời là cơ hội tìm nơi yên tĩnh để suy nghĩ…
Người con trai út Ngô Đình Luyện, vốn là một kỹ sư, về sau đi làm đại sứ của chính quyền Sài Gòn khi các anh trai mình ở trên đỉnh cao quyền lực, được coi là người có tính tình cởi mở, bạn học của cựu hoàng Bảo Đại. Lúc thất thế, về hưu, ông Ngô Đình Luyện phải sống khá chật vật

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2019

VNCH kẻ bán biển đảo của nước ta cho Trung Quốc

Năm 1945, Đài Loan chiếm đảo Ba Bình sau khi Nhật Bản thất trận. Nhà cầm quyền Pháp nhiều lần gửi Tàu đến đòi đảo, nhưng không có chiến tranh giữa Pháp và Đài Loan.
<<Theo Hiệp định Genève năm 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do có vĩ độ nằm phía Nam vĩ tuyến 17, vĩ tuyến được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời, nên thuộc vùng tập trung của khối Liên hiệp Pháp (bao gồm cả chính phủ Quốc gia Việt Nam).
Ngày 20 tháng 5 năm 1956[28] (một số nguồn cho là tháng 7 hoặc tháng 10[29]) Đài Loan (tức Trung Hoa Dân quốc sau năm 1949) quay lại chiếm giữ, xây dựng cơ sở quân sự và kiểm soát đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa. Việt Nam Cộng hòa đưa quân ra chiếm lại vào tháng 8 năm 1956 (đã tuyên bố chủ quyền vào tháng 6), nhưng sau đó, nhân dịp lễ Song thập 10/10, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh rút quân khỏi đảo Ba Bình, và Đài Loan kiểm soát đảo cho đến tận ngày nay.>>
Như vậy là Ngô Đình Diệm đã biếu không đảo Ba Bình làm quà cho Tưởng Giới Thạch nhân ngày lễ Song Thập năm 1956 mà không thông qua bất kỳ một văn kiện nào, đồng thời báo chí VNCH cũng hoàn toàn im lặng.
Năm 1956, Trung Cộng chiếm đảo Phú Lâm, đảo lớn nhất của quần đảo Hoàng Sa, và chiếm phần còn lại năm 1974 mà toàn dân VN ai cũng biết. Vậy dù thất trận, ít nhất Nguyễn Văn Thiệu, trong việc cố gắng bảo vệ Hoàng Sa, so với Ngô Đình Diệm, vẫn có chỗ tha thứ được, trong khi tên tam đại Việt cẩu Ngô Đình lại im ru cho TC chiếm Phú Lâm. Đã vậy hắn còn trâng tráo dâng hiến nước Viẹt Nam cho bà Maria, bà Maria không thấy đâu, thì đại diện cho bà Maria ở cõi trần là Vatican sẽ tóm thâu quyền điều hành đất nước VN.
Nên ta thấy rõ trong hai nền đệ I và đệ II Cộng Hoà miền Nam, tướng tá chỉ nghe lời các giám mục, tổng giám mục. Nguyễn văn Thiệu có ra lệnh mà không có sự gật đầu của các linh mục đứng sau thì không ai nghe lời, nên vợ Nguyễn Văn Thiệu phải lạy hết ngài tổng này đến ngài tổng kia của nhiều giáo phận khác nhau để cho mặt ngoài lệnh của chồng mình được thi hành một cách suông sẻ theo uy nghiêm của đấng thiên tử.
Vào thời Nguyễn Văn Thiệu, ta còn lại mất thêm 7 đảo Trường Sa vào tay Philippines, mất oan mất ức không kèn không trống, không có lấy dù chỉ một tuyên bố phản đối lấy có để giữ thể diện quốc gia.
Mà mất vào tay ai cho đành ? vào chính tên đồng minh yếu xìu so với VNCH vào thời bấy giờ, một tên đồng minh ba xạo chỉ gửi vài tên cố vấn sang VN để chơi đĩ. Nên nhớ, vào thập niên 70 - 75, hải quân VNCH còn mạnh hơn cả hải quân TQ, nhưng lại chả dám gãi vào cái mông của mấy thằng ma cô người Phi !
<<Năm 1970, Philippines đã tổ chức chiếm giữ đảo Song Tử Đông, đảo Thị Tứ, đảo Loại Ta và 4 đảo nữa. Theo như Đại tá về hưu hải quân Philippines Domingo Tucay Jr kể lại thì các đảo, bãi khi đó hoàn toàn hoang vắng, Philippines chiếm đóng dễ dàng. Chỉ khi tới đảo Song Tử Tây, họ mới thấy quân Việt Nam Cộng hòa đóng ở đây. Quân Phillipines báo về sở chỉ huy, được chỉ thị cứ để mặc quân Việt Nam Cộng hòa. Lính Việt Nam Cộng hòa ở đảo Song Tử Tây cũng để yên cho quân Philippines hành động. Sau chiến dịch, Philippines chiếm được 6 đảo nổi và bãi đá mà không cần phải nổ súng, trong đó Thị Tứ là đảo lớn thứ nhì, Bến Lạc (Đảo Dừa) là đảo lớn thứ ba, Song Tử Đông là đảo lớn thứ năm ở quần đảo Trường Sa. Philippines giữ các đảo và bãi này từ đó đến nay.
Sau vụ chiếm đóng, chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng không hề lên tiếng gì về vụ chiếm đóng đó. Theo như lời Tucay kể lại, nhiều tháng sau khi Philippines chiếm đóng 7 đảo ở quần đảo Trường Sa, các nước khác mới biết vụ việc này>>
Mã Lai cũng chiếm giữ 1 đảo và 4 đá, đồng thời tuyên bố chủ quyền với một số đảo khác ở phía Đông vào thời của Thiệu, và Thiệu cũng thà đánh với người anh em phương Bắc một mất một còn, chứ ngoài biển ai muốn lấy gì cứ tha hồ; đến nỗi, cái nước quèn Campuchia mà cũng chiếm của VNCH 5 đảo gần Kiên Giang Hà Tiên vào năm 1974, bao gồm các đảo nhỏ sau đây:
Hòn Keo Ngựa
Hòn Năng Trong
Hòn Năng Ngoài
Hòn Kiến Vàng, và
Hòn Tai (tiếng Pháp là Ile du Pic).
Vậy là VNCH bán nước tổng cộng:
- 2 đảo cho Đài Loan,
- 1 đảo cho TQ,
- 7 đảo cho Philippines,
- khoản 5 đảo cho Malaysia, và 5
- đảo cho Campuchia.
Còn những gì ta mất mát do chiến tranh, ta đánh không lại, như mất Hoàng Sa tôi không kể, vì đó không phải là bán nước, mà là để mất nước, hai thái độ khác nhau.
Trong khi đó, TQ chiêm các đảo Gạc Ma năm 1988 thì ta hy sinh hơn 60 chiến sĩ, và sau đó ta tấn công chiếm lại hai đảo Cô Len và Len Đao để sự tổn thất càng ít càng tốt.
Ngoài ra, ngày nay, nhà nước VN luôn có mặt trên 26 thực thể bãi cạn hay đảo đá tại Trường Sa, và từ sau 1975 đến nay, quân đội nhân dân VN đã hy sinh ngày đêm để gìn giữ ngoài khơi xa bờ đất nước mà đa số nhân dân sống không hề hay biết.
Nhà nước còn thậm chí phản đối cả các cơ quan truyền thông quốc tế như google, hoặc ngay ứng dụng thời tiết khi các ứng dụng này đề tên đảo Hoàng Sa của VN thành Tam Sa theo lối gọi Trung Quốc.
Đó mới là tranh đấu giữ nước.
Cuộc đấu tranh không chỉ đơn thuần bằng vũ khí, mà bằng chính con tim và khối óc, bằng sự di truyền cho con dân đất Việt biết rằng, cha ông chúng không ngừng đấu tranh, bằng mạng sống, bằng ngoại giao, bằng súng đạn, bằng chất xám, và bằng cả trái tim để bảo vệ từng tất đất từng bờ tre.
Do nhìn vào sự thực ấy, mà hầu hết trí thức, kể cả trí thức được đào tạo từ VNCH cũng dần dần ngã theo hướng đi chính nghĩa của dân tộc.
Viết những lời này, để nhắn nhủ ai từng gán cho những trí thức như LS Hoàng Duy Hùng, Trịnh Quốc Thiên, và trước đó đã có GS Trần Chung Ngọc, Nguyễn Mạnh Quang (trong đó có cả người viết bài này).... cái nhãn hiệu "ăn cơm quốc gia, thờ ma CS". 
Người Việt yêu nước Việt. Đó là chân lý nghìn đời không thể di dịch. Chúng ta yêu nước chứ không yêu chế độ. Chúng ta ủng hộ chế độ nào biết trân quý giang sơn gấm vóc, và chúng ta phỉ nhổ lên lũ hèn mạt xem giang sơn như của riêng của chúng, muốn tặng ai thì tặng, muốn dâng cho ai thì dâng, dù đó là Phật hay Chúa.
FB Anh-Tuan Le

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2019

Lịch sử giữ hai quần đảo Hoàng Sa- trường Sa (sachhiem.net)

1. Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa thuộc Biển Đông, bao gồm một số đảo nổi và hàng trăm đảo chìm, bãi san hô…, điều kiện sinh sống rất khó khăn, khắc nghiệt. Năm 1951 tại Hội nghị San Francisco, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách chủ quyền của Trung Quốc, đồng thời thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam đối với 2 quần đảo này; Năm 1954 Hiệp định Geneve được ký kết, tạm thời chia Việt Nam thành 2 miền Nam – Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm đường phân định ranh giới. Các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nằm phía Nam vị tuyến 17 trở vào Nam nên thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
2. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã bảo vệ các quần đảo như thế nào?
– Năm 1956 để Đài Loan xâm chiếm đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa.
– Năm 1959 dâng cho Đài Loan đảo Ba Bình, là đảo nổi có diện tích tự nhiên lớn nhất trong Quần đảo Trường Sa, mà không hề có phản ứng nào từ VNCH.
– Từ năm 1956-1960, VNCH đã biếu không cho Campuchia 5 đảo ở phía Tây Nam gồm: Hòn Năng (trong và ngoài), Hòn Tai, Hòn Kiến Vàng, Hòn Keo Ngựa và đảo Hòn Trọc (hay còn gọi là đảo Wai hoặc Poulo Wai).
– Năm 1970 Philippines xâm chiếm một số đảo, trong đó có 3 đảo nổi thuộc quần đảo Trường Sa mà Chính phủ VNCH đã tuyên bố và xác lập mốc chủ quyền, gồm: Thị Tứ, Loại Ta, Song Tử Đông, nhưng không gặp phải bất cứ phản ứng nào. Thậm chí nguồn tin phản ánh việc chiếm đóng đảo của Philipin nhiều tháng sau các nước mới biết, cho thấy Chính phủ VNCH đã “lãng quên” hoặc làm ngơ trước việc chiếm đóng này.
– Từ 1970 – 1971: Dâng cho Malaysia 7 đảo ở Trường Sa gồm: Đá Én Ca, Đá Hoa Lau, Đá Kỳ Vân, Đá Sác Lốt, Đá Suối Cát, Đá Kiêu Ngựa và Bãi Thám Hiểm.
– Năm 1974 sau trận hải chiến giữa hải quân VNCH với Trung Quốc, 36 đảo còn lại ở Quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng hoàn toàn. Với khí tài yếu kém VNCH về mọi mặt (tổng trọng tải tàu chiến khoảng 1.700 tấn so với 7.800 tấn của VNCH) nhưng VNCH lại thua và để mất Hoàng Sa. Đây là trận chiến mà như nhiều nhà phân tích, những người trong cuộc từng lên tiếng thì nguyên nhân thất bại là do VNCH bị Hoa Kỳ “bán đứng” và sự hèn nhát, nhu nhược của quân đội, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Nên nhớ lúc bấy giờ VNCH có lực lượng hải quân hiện đại, không quân xếp thứ 3 thế giới.
3. Cộng sản Việt Nam đã bảo vệ quần đảo như thế nào?
– Tháng 4/1975 nhận định Chính phủ VNCH sẽ sụp đổ, nước ngoài có thể lợi dụng tình hình này để chiếm các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, nên đã chủ động giải phóng các đảo nổi trước khi giải phóng trên đất liền:
+ Ngày 14/4/1975 giải phóng đảo nổi Song Tử Tây;
+ Ngày 24/4/1975 giải phóng đảo nổi Sơn Ca;
+ Ngày 27/4/1975 giải phóng đảo nổi Nam Yết;
+ Ngày 28/4/1975 giải phóng đảo nổi Sinh Tồn và Trường Sa Lớn;
– Trong những năm sau đó, tiếp tục chiếm giữ một số đảo nổi:
+ Ngày 10/3/1978 đóng quân giữ đảo nổi An Bang;
+ Ngày 13/3/1978 đóng quân giữ đảo nổi Sinh Tồn Đông;
+ Ngày 30/3/1978 đóng quân giữ đảo nổi Phan Vinh;
+ Ngày 04/4/1978 đóng quân giữ đảo nổi Trường Sa Đông;
+ Ngày 05/3/1987 đóng quân giữ đảo chìm Thuyền Chài;
+ Ngày 02/12/1987 đóng quân giữ đảo chìm Đá Tây;
Tuy nhiên do lực lượng, trang bị của hải quân hạn chế nên nhiều đảo chìm chúng ta không thể đóng quân, có những đảo đã đến đóng quân nhưng điều kiện sinh sống quá khắc nghiệt nên bộ đội phải rút về, như đá Châu Viên.
– Trong chiến dịch bảo vệ chủ quyền CQ88, chủ động ngăn chặn âm mưu thôn tính các đảo, bãi chìm của Trung Quốc, đã đóng giữ thành công 10 đảo chìm:
+ Ngày 23/1/1988 đóng quân giữ đá Tiên Nữ;
+ Ngày 05/2/1988 đóng quân giữ Đá Lát;
+ Ngày 06/2/1988 đóng quân giữ Đá Lớn;
+ Ngày 11/2/1988 đóng quân giữ Đá Đông;
+ Ngày 27/2/1988 đóng quân giữ Tốc Tan;
+ Ngày 02/3/1988 đóng quân giữ Núi Le;
+ Ngày 14/3/1988 diễn ra trận hải chiến Trường Sa làm 64 chiến sỹ tử thương, chúng ta giữ đươc Cô Lin, nhưng Trung Quốc chiếm được Gạc Ma và Len Đao.
+ Ngày 15/3/1988 đóng quân giữ các đảo chìm Đá Thị, Đá Nam;
+ Tháng 4/1988 chúng ta tổ chức chiến dịch bí mật nhằm chiếm lại Gạc Ma và Len Đao, nhưng chỉ giải phóng được Len Đao.
00Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn, lạc hậu, bị cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, quân sự, nhưng chúng ta đã chủ động đóng giữ, anh dũng bảo vệ các đảo nổi và 10 đảo chìm, trong đó nhiều đảo lớn, có tiềm năng phục vụ mục đích quân sự và phát triển kinh tế. Tuy không thể ngăn chặn Trung Quốc chiếm 6 đảo chìm (Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Xu Bi, Huy Gơ, Gạc Ma), nhưng có thể khẳng định chiến dịch CQ88 đã thắng lợi, làm thất bại âm mưu chiếm đóng toàn bộ Trường Sa của Trung Quốc.
Theo báo cáo của chính phủ Mỹ, đến năm 2015, Việt Nam đã mở rộng khu vực kiểm soát lên 48 đảo, cồn và rạn san hô. Nhóm đảo này được gộp vào thành một huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa (nguồn: https://thediplomat.com/2015/06/who-is-the-biggest-aggressor-in-the-south-china-sea/ fbclid=IwAR17QSdNyOWjxgsl7CxWTlpEa-CB286v1X5KK1xJ8GEo8nBIpTskQXMUP48)
Từ 5 đảo chiếm từ tay của VNCH năm 1975, đến nay chúng ta đã nâng tổng số đảo và điểm đóng quân lên 48 điểm./.