THẤT BẠI trong khâu chuẩn bị là chuẩn bị cho một THẤT BẠI!

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2020

Tin giả trong Chiến tranh Việt Nam

Chiến tranh tâm lý của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam

Là một quốc gia coi trọng khoa học chính trị, coi trọng trí tuệ mưu lược của nghệ thuật chiến tranh không tiếng súng, và coi trọng việc sử dụng những thủ thuật chính trị để giải quyết chiến tranh, Hoa Kỳ luôn nghiên cứu chuyên sâu, khai thác, tận dụng tất cả mọi khía cạnh, mọi vấn đề để giành phần thắng, và trong các loại hình chiến tranh mà Mỹ tiến hành luôn luôn được phụ trợ bằng chiến tranh tâm lý hoặc “tâm lý chiến” (psychological warfare – viết tắt: PSYWAR).

Chiến tranh tâm lý bao gồm những hành động tẩy não, nhồi sọ, loan truyền tin giả, bóp méo, bẻ cong tin thật, mua chuộc, chiêu dụ, lôi kéo những kẻ địch ở nước sở tại thân Mỹ, theo Mỹ, đứng về phía Mỹ hoặc hiệu quả hơn đó là gia nhập hẳn vào hàng ngũ của Mỹ, như chương trình Moolah mà Mỹ đã sử dụng hạn chế ở Trung Quốc trong thời Dân Quốc, thời kháng Nhật và sau đó sử dụng rộng rãi ở cả Nam Bắc Triều Tiên trong cuộc chiến tranh chống Trung Quốc trên chiến trường Bắc Triều Tiên. Chương trình Moolah khi được áp dụng ở Việt Nam đã nâng cấp thành chương trình Open Arms (Việt Nam hóa thành “Chiêu Hồi”), nhắm thẳng vào tâm lý mọi đối tượng của đối phương.

Thiếu tá Alan Byrne (trái) và trung tá Robert Laabs (phải), tham mưu trưởng Trung tâm Phát triển Chiến tranh tâm lý (PSYOP Development Center), Đoàn hành động Chiến tranh tâm lý 4 (4th PSYOP Group) ở Việt Nam năm 1968

Hình bìa sách giáo khoa hướng dẫn chiến tranh tâm lý do chính phủ Mỹ xuất bản năm 1968 trong Chiến tranh Việt Nam, có tên là MACV PSYOP Guide (Kim chỉ nam Chiến dịch Chiến tranh tâm lý – PSYOP). Lưu ý trong hình có hai người Việt trong nhà hàng đang đọc truyền đơn Chiêu Hồi.

Một trang trong kim chỉ nam chiến tranh tâm lý Chieu Hoi – The Winning Ticket (Chiêu Hồi – Tấm Vé Giành Chiến Thắng) do chính phủ Mỹ ấn hành năm 1970. Dịch: Một người bắt đầu nghĩ nếu được cho một cơ hội, anh ta có thể từ bỏ tranh đấu. Nhiều người quả thật từ bỏ tranh đấu, nếu họ có cơ hội.

 

Có 3 loại hình tuyên truyền mà Mỹ dùng để tạo nên các sản phẩm thông điệp, bao gồm tuyên truyền “Trắng” là một hình thức tuyên truyền công khai, chính thống, chính thức, tuyên truyền “Đen” và tuyên truyền “Xám” là hình thái tuyên truyền ngụy trang, che đậy, mờ ám, tiêu cực. Trắng, xám, đen không phải là sự phân loại về nội dung tuyên truyền, mà là sự phân loại về biện pháp, phương thức được sử dụng để thực hiện chiến dịch chuyển tải, phát tán những sản phẩm thông tin đó.

Chiến tranh tâm lý “Trắng” là loại hình tuyên truyền bằng những công bố, tuyên bố, hoặc động thái chính thức của chính phủ Mỹ, hoặc từ những thông tin được cung cấp bởi những nguồn có liên quan đến chính phủ Mỹ, cũng như những báo chí, truyền thông chính thống (mainstream media) tại Mỹ. Nó công khai cho thấy nó là thông tin từ phía Mỹ, từ chính quyền Mỹ.

Những cơ quan phụ trách tuyên truyền “Trắng” nhắm vào đối tượng độc giả, khán thính giả nước ngoài bao gồm: Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, Sở Thông tin Hoa Kỳ (United States Information Agency – USIA), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (United States Agency for International Development – USAID), Bộ quốc phòng Hoa Kỳ, và nhiều sở, bộ khác của chính phủ Hoa Kỳ.

Chiến tranh tâm lý “Xám”, là loại hình tuyên truyền bằng những nguồn tin mờ mịt, mơ hồ, không rõ ràng. Nguồn gốc thật (chính phủ Mỹ) không được tiết lộ tới những đối tượng độc giả, khán thính giả. Những nguồn tin được ngụy tạo như là một nguồn tin phi chính thống không phải từ chính phủ Mỹ, hoặc “trung lập” giả tạo, hoặc ngụy tạo là những nguồn từ phía thứ ba không thù địch với đối tượng mà chính phủ Mỹ muốn bôi nhọ.

Chiến tranh tâm lý Xám cũng có thể là những nguồn tin tuyên truyền cho góc nhìn, quan điểm của Hoa Kỳ, phục vụ cho lợi ích của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ, có hại cho đối tượng mà Hoa Kỳ muốn bôi nhọ, mà không trực tiếp từ Hoa Kỳ, có thể từ những quốc gia “vệ tinh” của Mỹ, những quốc gia lệ thuộc Mỹ, những đồng minh lâu năm của Mỹ v.v. mà có bàn tay của Mỹ của trong đó. Có nhiều trường hợp những tác động, tham gia của phía Mỹ cũng không được tiết lộ.

Chiến tranh tâm lý “Đen”, là loại hình tuyên truyền từ những nguồn (quốc gia, chính phủ, đảng phái, phe nhóm, tổ chức, cá nhân v.v.) có thái độ thù địch với cộng đồng quốc tế nói chung. Lợi dụng hoặc là ngụy tạo những nguồn đó. Lợi ích của chính phủ Mỹ được khéo giấu đi và chính phủ Mỹ nếu cần sẽ bác bỏ trách nhiệm. Loại hình tâm lý chiến này thích hợp cho những kế hoạch chiến lược cao.

Để đạt được hiệu quả cao nhất 2 loại hình chiến thuật chiến tranh tâm lý overt (công khai) và covert (giấu kín) đều phải được chia cách ra làm 2 tổ riêng rẽ, biệt lập với nhau. Nhân viên tham gia chiến thuật overt không thể tham gia chiến thuật covert, và ngược lại. Họ không biết được nhiệm vụ của nhau.

Tấm hình của lính Mỹ Paul Sgroi chụp chuyên viên tâm lý chiến John C. Stermer đang rải truyền đơn từ trực thăng UH-1H (Huey) vào năm 1969.

Truyền đơn được rải xuống từ máy bay U-10

Đội phát loa chiến tranh tâm lý Mỹ-ngụy trên chiến trường Việt Nam

Ngay từ đầu thập niên 1950, khi Mỹ chỉ mới đứng sau và viện trợ cho Pháp xâm lược Đông Dương, chứ họ chưa tiến hành chiến tranh với Việt Nam, thì chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu trước, đề phòng trước, và đã cẩn thận cảnh báo về chiến tranh tâm lý của Mỹ và kêu gọi quân dân Việt Nam phải đề cao cảnh giác trước tâm lý chiến của Hoa Kỳ.

Trong thời gian đó chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài báo, phân tích, bình luận về các thủ đoạn và hình thức tẩy não, nhồi sọ, tuyên truyền dối trá của Mỹ, trong đó có 2 bài viết ấn tượng đó là bài “Tuyên truyền” viết ngày 25-5-1954 trên báo Nhân dân số 188 và bài “Chiến tranh nhồi sọ” viết ngày 25-7-1952 trên báo Cứu quốc số 2128.

Trong bài “Tuyên truyền”, Bác viết: “Nói tóm lại, chúng dùng đủ mọi cách, mọi dịp để tuyên truyền, để hòng phá hoại tâm lý và tinh thần của nhân dân ta; cũng như chúng dùng bom đạn để phá hoại mùa màng và giao thông của ta.” Cuối bài Bác nhấn mạnh ý chính: “Chúng ta phải đánh thắng địch về mặt tuyên truyền, cũng như bộ đội ta đã đánh thắng địch về mặt quân sự!”

Trong bài “Chiến tranh nhồi sọ”, Bác viết: “Ở các nước, có hơn 400 cơ quan làm việc tuyên truyền cho Mỹ… Mỹ còn lập nhà thương, trường học, hội từ thiện, vân vân, ở các nước, để làm cơ quan tuyên truyền và ổ mật thám. Hiện nay, tại những vùng tạm bị (Pháp) chiếm ở nước ta, Mỹ đang ra sức xâm lược vǎn hoá để hủ hoá và gieo rắc bệnh phục Mỹ, thân Mỹ, sợ Mỹ vào nhân dân, nhất là vào thanh niên ở những vùng ấy. Đó là một điều mà cán bộ giáo dục và tuyên truyền ta phải đặc biệt chú ý và phải ra sức chống lại.”

Hình bìa truyện tranh “Is this tomorrow, America under communism” (Phải chăng đây là ngày mai, Hoa Kỳ dưới chủ nghĩa cộng sản).

Rất nhiều sách, truyện tâm lý chiến đã được xuất bản ở miền Nam Việt Nam. Tháng 7 năm 1967, 20 trang sách in màu, mật mã 2078, dưới tựa đề “Qua Cơn Ác Mộng” (The Chieu Hoi Story) được phát hành, truyện trình bày theo phong cách truyện tranh, hư cấu “nỗi niềm” của một “hồi chánh viên”, những “trải nghiệm ác mộng” dưới chế độ cộng sản ở vùng giải phóng và và lý do vì sao anh ta phải thoát ly cách mạng.

Tháng 10/1967, 20 trang sách với 12 hình chụp với tựa đề “Nhật ký của người Hồi Chánh” (Diary of a Returnee), mật mã 2169, được phát hành, truyện hư cấu theo hướng nội dung kể trên. Sách này còn liệt kê danh sách những chế độ đãi ngộ, tiền thưởng để chiêu dụ.

Năm 1955, Mỹ đài thọ cho chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập Nha Chiến tranh Tâm lý, người Mỹ chịu mọi chi phí. Năm 1965, cơ quan này đổi tên thành Cục Tâm lý chiến và sáp nhập vào Tổng cục chiến tranh chính trị.

Hoạt động của Nha Chiến tranh Tâm lý trong những vùng tạm chiếm ở miền Nam chủ yếu là tẩy não, nhồi sọ, tuyên truyền chống cách mạng, bôi nhọ người kháng chiến chống Mỹ, cáo buộc những lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, bịa đặt hoặc xuyên tạc tình hình ngoài Bắc, “chụp nón cối”, quy chụp “Việt Cộng nằm vùng”, “chứa chấp Cộng Sản” cho những nhóm đối lập với Mỹ-ngụy, nhất là trong giới tôn giáo, Phật giáo.

Các hoạt động này chủ yếu được thực hiện bằng những buổi truyền thanh (ví dụ: chương trình Dạ Lan, Nhạc Thời Chinh Chiến, Tiếng Ca Gửi Người Tiền Tuyến), truyền hình (ví dụ: chương trình Thép Súng), xuất bản (ví dụ: báo Chánh Đạo, báo Tiền Tuyến), chiếu phim (ví dụ: phim Chúng Tôi Muốn Sống do người Mỹ dàn dựng và sản xuất), văn nghệ (ví dụ: Biệt đoàn văn nghệ trung ương) …. Hai công cụ chính là Đài Phát thanh Quân đội và báo Chánh Đạo.

Áo tâm lý chiến. Trên áo là logo của chương trình Chiêu Hồi.

Những du kích phản bội nhận tiền thưởng sau khi dẫn binh lính Mỹ-ngụy tới kho vũ khí bí mật.

Hoạt động của nó trong những vùng giải phóng ở miền Nam và miền Bắc chủ yếu là kích động bất ổn, xúi giục, phao tin thất thiệt, loan truyền tin giả, xào nấu tin thật, tuyên truyền bôi nhọ chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Lao động Việt Nam và nhà nước, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, vu cáo những nhà lãnh đạo của VNDCCH, bịa đặt hoặc bóp méo tình hình trong Nam, kêu gọi lật đổ chế độ, tô hồng Mỹ-ngụy, tuyên truyền không trung thực về tình hình xã hội miền Nam, ca ngợi giả dối về hình ảnh một “Hòn ngọc Viễn Đông” “giàu mạnh”, “phồn vinh”, tuyên truyền về các khái niệm “tự do”, “dân chủ” theo định nghĩa và định hướng của bộ máy chính trị Hoa Kỳ và cỗ máy chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.

Các hoạt động này của nó chủ yếu bằng đài phát thanh “Tiếng nói Tự do”, “Mẹ Việt Nam”, “Gươm thiêng Ái quốc” (1965), “Tiếng nói Nam Bộ”, “Tiếng nói Khmer” và “Mặt trận Dân tộc Đông Dương”. Riêng 2 đài sau hoạt động chủ yếu nhằm gây chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia.

 

Các cơ quan chiến tranh tâm lý của Mỹ-ngụy hoạt động theo phong cách phát xít chống cộng kiểu Đức Quốc Xã, như Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của Hitler đã tuyên bố đại ý: Sự thật là những gì không đúng sự thật được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, lúc đầu dân không nghe, còn bán tín bán nghi, nhưng lặp đi lặp lại mãi thì dân sẽ tin đó là sự thật.

Tuy nhiên kết quả thất bại của cuộc chiến Việt Nam và kết quả hạn chế của các hành động hậu chiến chống Việt Nam sau này, dù họ đã lặp đi lặp lại những lời lẽ tuyên truyền nhiều vạn lần từ sau cuộc chiến đến nay đã cho thấy rằng lý thuyết, quan điểm, cách làm này của Đức Quốc Xã và Mỹ-ngụy là không có nhiều hiệu quả thực tế.

Bích chương tuyên truyền chống Cộng Sản, chống Bolshevik của phát xít Đức Quốc Xã.

 

Các cơ quan liên quan đến ngành tâm lý chiến bao gồm:

Cục chính huấn, công tác chính của nó là tẩy não và nhồi sọ những thanh niên bị bắt lính. Cơ quan này đã sáng tác nhiều bài hát quân đội (ví dụ: “Hàng ngàn cánh tay đưa lên”, “Giặc từ miền Bắc vô đây”), bắt chước thể loại nhạc hùng ca chiến đấu của Việt Minh, để “lên dây cót” tâm lý, kích động tinh thần binh lính và đưa họ ra chiến trường tham chiến cho chính phủ Mỹ, đánh thay và đỡ đạn cho quân đội viễn chinh Mỹ.

Cục xã hội và Cục quân tiếp vụ, các chuyên viên và các nha tuyên úy lo việc “ru ngủ” các tầng lớp xã hội, bao gồm cả tôn giáo. Cung cấp đô la hoặc hàng hóa như thuốc lá, bơ, sữa cho binh lính và gia đình ở giá thấp hơn giá thị trường. Mở các hoạt động ngụy tạo từ thiện, bố thí tiền bạc và vật chất để quảng cáo, tiếp thị, quảng bá hình ảnh Diệm-Thiệu và “người bạn lớn Hoa Kỳ”.

Trường Đại học Chiến tranh Chính trị: Đào tạo các kỹ năng tẩy não, nhồi sọ của chiến tranh tâm lý kiểu Mỹ. Tổ chức hội luận, nghiên cứu kỹ thuật tẩy não, nhồi sọ các thanh niên miền Nam bị bắt lính, và chương trình tẩy não, nhồi sọ trong các quân trường. Thành lập từ năm 1956 dưới tên Trường Quân báo Tâm lý chiến Cây Mai. Năm 1964 đổi tên thành Trường Chiến tranh Chính trị. Năm 1966 đổi tên thành Trường Đại học Chiến tranh Chính trị và dời lên Đà Lạt. Trường đào tạo được 6 khóa sĩ quan rồi bị giải tán sau ngày 30/4/1975.

 

 

Truyền đơn SP-782

Truyền đơn 2310

Chiến dịch Tố Cộng

Trong chiến dịch “Tố Cộng”, ngoài những đàn áp bạo lực, bỏ tù, lưu đày, ám sát, dùng máy chém chặt đầu để khủng bố trắng và đàn áp người kháng chiến, Mỹ-Diệm cũng thực hiện chiến dịch chiến tranh tâm lý quy mô lớn để mị dân trong một số khu vực. Tuy nhiên, chính những đồng bào không nằm trong hàng ngũ kháng chiến đã góp công rất lớn vào cuộc đấu tranh chống chiến tranh tâm lý.

Tại Quảng Trị, ngụy quyền chuẩn bị một bản danh sách “tội ác cộng sản” rồi bắt ông Lê Chí Khiêm trong ban trị sự hội Phật học lên đọc. Trước khi đọc ông nói: “Bản này không phải tự tay tôi viết ra, mà nói đây là tội ác của cộng sản thì chính tôi chưa bao giờ nghe và chưa bao giờ thấy, nhưng người ta viết ra bảo tôi đọc thì tôi xin đọc để bà con nghe”.

Hình tượng hơn là chuyện ở Phan Rí (Bình Thuận). Khi một quận trưởng muốn mị dân, cho tổ chức một cuộc tranh luận giữa ông ta với người dân địa phương về những cái tốt và cái xấu giữa phía kháng chiến và phía Mỹ-Diệm, ông Bộ Gạch người dân tộc Chăm đã đứng lên nói một điều không nằm trong các giáo trình tâm lý chiến mà người quận trưởng đã chuẩn bị sẵn từ trước: “Các ông có chín cái tốt và một cái xấu, còn cộng sản có chín cái xấu và một cái tốt. Các ông cái gì cũng tốt nhưng ở với dân xấu quá. Cộng sản cái gì cũng xấu nhưng ở với dân quá tốt. Các ông có làm gì đi nữa, lòng dân vẫn theo cộng sản và cuối cùng cộng sản vẫn thắng.”

Trong một đêm Tố Cộng ở Chợ Lớn, một ông cụ người Việt gốc Hoa đã nói: “Việt Cộng có nhiều cái xấu: Súng xấu, đạn xấu, quần áo xấu, chỉ có cái tốt là trong kháng chiến hồi đánh Tây đã sống chết để bảo vệ dân. Các ông thì có nhiều cái tốt: Súng tốt, xe cộ tốt, quần áo tốt, chỉ có cái xấu là giật của dân thôi”.

Người dân còn đặt nhiều câu hỏi làm cho những kẻ chỉ đạo các cuộc Tố Cộng ấp úng khó trả lời như: “Các ông nói cộng sản độc tài, nhưng chúng tôi không thấy cộng sản độc tài vì trong kháng chiến cộng sản kêu gọi đánh Tây gìanh độc lập mới có hòa bình, dân đói họ kêu gọi sản xuất để được no ấm.”, “Các ông nói cộng sản ‘cướp công kháng chiến’, nhưng lúc đánh Tây, các ông ở đâu, sao toàn thấy cộng sản?”, “Nói ‘quốc gia kháng chiến’ sao lại đi làm cho Tây?”.

Những câu hỏi đúng sự thật như vậy làm cho ban tổ chức thường xuyên bị “bí” không trả lời được. Nhiều lần họ phải giải tán lớp học. Một người chủ tịch Hội đồng chỉ đạo tố cộng cấp trung ương ngụy quyền đã phải nói: “Đây là một thất bại lớn vì phong trào chất vấn rộng rãi, hướng dẫn viên của chúng ta không trả lời được”.

Hình truyền đơn SP-1352A – mặt trước

Truyền đơn ATF-088-71 – mặt trước và sau

 

“Thảm sát Mậu Thân Huế”

Ngoài chiến dịch chiến tranh tâm lý rộng lớn kể trên của Mỹ-Diệm, sau này Mỹ-Thiệu cũng thực hiện một chiến dịch chiến tranh tâm lý quy mô lớn sau trận đánh 25 ngày ở Huế trong sự kiện xuân Mậu Thân 1968.

Sau trận chiến 25 ngày, Mỹ-ngụy trong một sự kiện ở Huế mà nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân và nhiều cư dân Huế gọi là sự kiện “Hậu Mậu Thân” đã lùng sục trả thù, giết hại. Người dân Huế nào có thiện cảm, có giúp đỡ Mặt Trận dù chỉ là vài lon gạo, vài đồng tiền dành dụm, hay cả nhà có 1 người nào đó theo cách mạng, đều bị đem ra trả thù, hành quyết. Họ đã tẩy trắng Huế bằng bom đạn trong nỗ lực chiếm lại thành phố. Và sau khi đã chiếm lại thì họ ngăn chặn phóng viên vào tác nghiệp, đồng thời mở cuộc tổng trả thù quy mô lớn.

Một nhân chứng ở Huế, chị Nguyễn Thị Hoa khi trả lời phỏng vấn trong phần 7 của loạt phim tài liệu 13 phần Vietnam: A Television History (Việt Nam: Thiên lịch sử truyền hình), do đài PBS (Mỹ), WGBH Boston (Mỹ), CIT (Anh), Antenne-2 (Pháp) và LRE Production (Pháp) sản xuất và phát hành, đã cho biết: “Bắt đầu là chúng nó (Mỹ) dùng phi pháo. Chúng dội pháo vào khu vực chúng tôi sinh sống, san bằng nhà cửa, cây cối. Chúng bắn pháo vào nhà những khu vực quanh đó. Những nhà này bán xăng dầu nên khi pháo bắn thì cháy trụi. Tất cả người già, trẻ nhỏ, phụ nữ lánh nạn ở đây đều bị thiêu sống.”

Sau đó, Mỹ-ngụy gom lại xác những nạn nhân chiến tranh lại, trong đó phần lớn là những người dân bị chết bởi bom đạn Mỹ, những người dân bị chính họ tàn sát trả thù, những thi thể chiến binh Giải phóng và lính ngụy, cũng như những cộng sự của Mỹ, gom lại hết, rồi quay phim và chụp hình tuyên truyền giả dối đó là “nạn nhân thảm sát của Việt Cộng”, thậm chí sau đó một số kẻ viết thuê ở Sài Gòn còn nâng lên thành “hành quyết”, “chôn sống”, con số thì có những bài báo phóng đại lên đến “hàng triệu”.

Sau khi chiếm Huế, Mỹ-ngụy phong tỏa khu vực, ngăn cấm tất cả phóng viên nào muốn vào Huế kiểm chứng các “hố chôn tập thể”. Sau khi đã dàn dựng xong, họ mới cho các phóng viên báo chí ngụy quyền, hoặc chống cộng, hữu khuynh vào đưa tin, làm phóng sự về “tội ác Việt Cộng”, rồi sau đó mới hoàn toàn cho phép các phóng viên quốc tế, trung lập vào tác nghiệp.

Nhà văn Trần Thị Thu Vân (Nhã Ca) sau đó được chỉ đạo viết tiểu thuyết “Giải khăn sô cho Huế” theo phong cách tự truyện, một dạng “hồi ký ma” được hư cấu từ trí tưởng tượng phong phú của một nhà văn tâm lý chiến chuyên nghiệp lĩnh lương Mỹ để tuyên truyền bôi nhọ lực lượng kháng chiến.

Chiến dịch chiến tranh tâm lý này tuy đã thành công lừa gạt được một bộ nhận nhỏ, nhưng không lừa dối được nhiều người Việt Nam và người dân thế giới, bởi vì:

  • Chỉ nói suông, không bằng chứng, không có hình chụp, thước phim nào có những người lính Giải phóng trong đó. Trong tất cả các hình ảnh về tội ác chiến tranh ở Việt Nam thì những bức ảnh lính Mỹ-ngụy gây tội ác nào mà có lính Mỹ-ngụy trong đó thì được công nhận là tội ác Mỹ-ngụy. Còn những bức ảnh không có lính Mỹ-ngụy trong đó thì bị các cơ quan tâm lý chiến tuyên truyền thành “tội ác cộng sản”. Tất cả các bức ảnh được giới tâm lý chiến Sài Gòn và các thế lực chống cộng tuyên truyền xưa nay đều không có bất kỳ 1 hình nào có người lính Giải phóng trong đó, chỉ thấy nạn nhân cùng những lời bình chụp mũ, gán tội vô căn cứ, không bằng không chứng và giấu đi ai là kẻ thủ ác thật sự.
  • Không hợp thường lý và không có tiền lệ. Quân Giải phóng sống trong dân, sống nhờ vào dân, được dân nuôi giấu, che chở, thảm sát dân chính là tự sát, là tự tuyệt đường sống của quân mình.
  • Trái ngược với luật pháp Việt Nam, các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng cũng như chính sách của Nhà nước, hay các tuyên thệ, quân luật, cách làm, các hành động lâu nay của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chiến lược của Việt Nam là chiến tranh nhân dân, với phương châm “quân với dân như cá với nước”. Mỹ-ngụy đã phải xây các trại tập trung như Ấp chiến lược để gom dân, dồn dân vào đó để tách dân ra khỏi quân, “tát nước bắt cá”. Các chỉ thị từ trên xuống quân đội thường xuyên nhấn mạnh “phải dựa vào dân”. Vì vậy những hành động gây tai tiếng, làm xấu hình ảnh trước nhân dân và dư luận quốc tế là không hợp lý. Thực tế trước và sau chiến dịch Mậu Thân thì sự ủng hộ của người dân đối với cách mạng vẫn vậy không lay chuyển.
  • Không phù hợp với các bằng chứng hay những lời kể từ các nhân chứng ở hiện trường, cũng như không được nhiều người trên thế giới tin tưởng, đề tài này không được các học giả xem là một đề tài nghiêm túc để đưa vào các tác phẩm, công trình nghiên cứu của họ. Nói chung thông tin này không phù hợp với các nguồn tin, sách báo, tài liệu quốc tế.
  • Xưa nay có nhiều phóng viên chiến trường như David Duncan, Robert Shaplen, nhà báo, nhà nhiếp ảnh người Pháp Marc Riboud, nhân viên Bộ quốc phòng Hoa Kỳ Townsend Hoopes và các nhà nghiên cứu độc lập như tiến sĩ Noam Chomsky, nhà kinh tế học Edward Herman, giáo sư tiến sĩ Gerath Porter, tiến sĩ Alje Vennema, sử gia Stanley Karnow, cựu phóng viên Bưu báo Washington (Washington Post) Don Lux, giáo sư sử học Larry Berman v.v. đều đã góp phần vạch trần chiến dịch thông tin bôi nhọ này của Mỹ-ngụy.

 

Truyền đơn dùng tiền bạc và lợi ích vật chất để chiêu dụ quân Giải phóng.

Truyền đơn 2990 – mặt sau. Chức vụ càng lớn, tiền thưởng càng nhiều.

Truyền đơn 2992

Truyền đơn 2993

Truyền đơn 7-377-68

Truyền đơn 7-617-68

 

 

Theo Thiếu Long Texas