Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2024
Vì sao biệt động đánh đại sứ quan Mỹ mà không bị lên án
Thứ Tư, 29 tháng 5, 2024
VÌ ÔNG MINH TUỆ MÀ CÓ MỘT ĐÁM ĐÔNG SẴN SÀNG LAO VÀO NGUYỀN RỦA CẢ MỘT TỈNH THÀNH, SỈ NHỤC CẢ ANH HÙNG LIỆT SĨ
Thứ Hai, 27 tháng 5, 2024
“Sex”, ma túy và Chiến tranh Việt Nam
Miền Nam Việt Nam đã được giải phóng khỏi những gì?
Một thuộc địa kiểu mới, một xã hội thực dân mới thì đương nhiên cần phải được giải phóng khỏi tay giặc xâm lược bằng một cuộc kháng chiến chống xâm lược để giải phóng dân tộc, giành lại chính quyền, giành lại quyền hành từ tay giặc xâm lược.
Nhưng bản thân xã hội trong vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam còn có những căn bệnh bất trị, đưa đến nhu cầu chính đáng cần phải được giải phóng.
Xã hội trong những đô thị bị tạm chiếm, về văn hóa thì méo mó, thác loạn, Tây hóa, Mỹ hóa. Đời sống tinh thần lệch lạc, đạo đức băng hoại, những phụ nữ ăn mặc hở hang đứng đường chào mời lính Mỹ là những hình ảnh thường thấy trên đường phố Sài Gòn, nhất là về đêm. Thường xuyên có những cô gái trẻ nhảy sông tự tử vì tình và vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Báo chí tư nhân rẻ tiền trần trụi và công khai xúc phạm phẩm giá những nhân vật công chúng để câu khách. Truyện khiêu dâm được xuất bản bán công khai đầy ở các nhà sách.
Ngoài các nạn nhân bị thương vong, dị tật, di chứng từ cuộc chiến, nạn nhân chất độc hóa học, người Mỹ còn để lại một nền kinh tế tê liệt, trên 3 triệu người thất nghiệp, gần 1 triệu trẻ mồ côi, khoảng 600 ngàn gái mại dâm, trên 1 triệu bệnh nhân nghiện ngập ma túy.
Đó là hậu quả của một thời kỳ ngoại thuộc lâu dài và buôn lậu ma túy gần 20 năm từ Diệm – Nhu và Trần Lệ Xuân cho đến Thiệu – Kỳ và Nguyễn Thị Lý, cũng như gia đình của họ. Trong nhiều phim tài liệu trong và ngoài nước, có thể thấy được ma túy được bày bán công khai ngoài chợ giữa ban ngày, nhất là ở Chợ Lớn.
Buôn lậu ma túy
Tiến sĩ ngành sử học Đông Nam Á Alfred W. McCoy là một sử gia có tên tuổi, ông viết cùng tác giả Cathleen B. Read trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia (Nền chính trị ma túy ở Đông Nam Á), do Harper & Row xuất bản năm 1972, về tình trạng buôn lậu ma túy và sự giao dịch giữa bọn tội phạm hình sự, bọn mafia quốc tế ở Đông Nam Á, đã tóm lược như sau:
Ngô Đình Nhu đã quyết định tái lập việc buôn bán ma túy để lấy tiền. Dù đa phần các tiệm hút ở Sài Gòn đã đóng cửa 3 năm rồi, hàng ngàn con nghiện người Việt và người Hoa vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những người cầm đầu của các tổ chức xã hội đen, Hội Tam Hoàng của người Hồng Kông ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối ma túy nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, hàng trăm tiệm hút ma túy này đã hoạt động trở lại, và 5 năm sau, tuần báo Time đã ước lượng ở Chợ Lớn có đến khoảng 2.500 cơ sở hút ma túy hoạt động công khai.
Để có thể cung ứng thuốc phiện đầy đủ cho khách hàng tiêu thụ, Ngô Đình Nhu thiết lập hai hệ thống đường bay khứ hồi từ vùng sản xuất thuốc phiện sống ở Lào về miền Nam Việt Nam. Hệ thống đường bay chính là thuê các phi cơ nhỏ của Hàng không Lào, giao cho trùm tội phạm quốc tế Bonaventure “Rock” Francisci phụ trách. Francisci trực tiếp nói chuyện và thương lượng với Ngô Đình Nhu. Theo trung tá Lucien Conein, một cựu viên chức cao cấp CIA ở Sài Gòn, mối quan hệ mờ ám giữa Ngô Đình Nhu và Francisci về dịch vụ bất hợp pháp này khởi đầu vào năm 1958. Sau khi Nhu bảo đảm an toàn cho việc đem thuốc phiện về Sài Gòn, Francisci dùng đoàn máy bay Beechtcrafts hai động cơ vận chuyển món hàng này về miền Nam Việt Nam hàng ngày.
Ngoài ra, Ngô Đình Nhu còn phái nhân viên tình báo dưới quyền bác sĩ Trần Kim Tuyến đến Lào với nhiệm vụ là vận chuyển thuốc phiện sống về Sài Gòn bằng phi cơ quân sự của không quân Sài Gòn. Tuy nhiên, nhiều người trong nội bộ cho rằng bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đứng đầu tổ chức mật vụ có danh xưng trá hình “Sở Nghiên cứu Chính trị – Xã hội”, do CIA tài trợ, mới thật sự là nhân vật chủ chốt của kế hoạch làm ăn bất chính này.
CIA là một ông “trùm ma túy”. CIA từng giao dịch ma túy với Trung Hoa Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc, và giúp máy bay cho Tưởng Giới Thạch vận chuyển và giao dịch thuốc phiện ở Miến Điện và Thái Lan. Trong chiến tranh Afghanistan lần thứ nhất (1979-1989), CIA đã giúp lãnh tụ Hồi giáo Gulbuddin Hekmatyar, một người chống Liên Xô, vận chuyển và giao dịch ma túy.
Ngày 13/4/1989, bản báo cáo của Hội đồng Kerry, do Thượng nghị sĩ John Kerry (từng là ứng cử viên Tổng thống, hiện là Bộ trưởng ngoại giao), đã kết luận rằng CIA đã dùng nguồn thu nhập từ ma túy để chi tiêu cho lực lượng đặc nhiệm Contra.
Nhà ngoại giao người Canada, Gs. Peter Dale Scott cho biết Guadalajara Cartel là đường dây buôn lậu ma túy mạnh nhất đầu thập niên 1980, chúng hoạt động thoải mái phần lớn nhờ sự bảo kê của cơ quan DFS, là một cơ quan ngoại vi của CIA do Miguel Nazar Haro phụ trách.
Vicente Zambada Niebla, con trai của Ismael Zambada García, là một trong những tay trùm ma túy lớn nhất ở Mexico, sau khi bị bắt đã khai với các luật sư của hắn rằng hắn và các cộng sự được các nhân viên người Mỹ cung cấp “giấy phép” đặc biệt để vận chuyển ma túy qua lại biên giới hai nước, để đổi lấy các tin tức tình báo nội bộ về cuộc chiến ma túy quy mô lớn đang diễn ra ở Mexico.
Ngoài ra CIA còn nhúng tay vào việc giúp đỡ giao dịch hoặc trực tiếp giao dịch ma túy ở Panama sau khi gần 3 vạn quân Mỹ tấn công nước này vào năm 1989. CIA còn từng có một thời gian dài dùng ma túy chiêu dụ lực lượng Vệ binh Quốc gia Venezuela để đổi lấy các thông tin tình báo. Việc này đến năm 1996 mới được đưa ra công luận.

Một quán bar ở Sài Gòn dưới thời Nixon (1969). Năm 1969 là thời điểm quân đội Mỹ tràn ngập miền Nam Việt Nam đông đảo với hơn 55 vạn quân. Trong năm này binh lính Mỹ ở Sài Gòn chi tiêu khoảng 30 triệu USD mỗi tháng (tương đương 210+ triệu USD theo thời giá năm 2020). Ngoài các viện trợ kinh tế dồi dào thì khoản tiển khổng lồ này cũng góp phần tạo ra vỏ bọc hào nhoáng phồn vinh giả tạo cho “Hòn ngọc Viễn Đông” của Mỹ.
Hai tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee trong sách The Deaths of the Cold War Kings: The Assassinations of Diem and JFK (Cái chết của những ông vua Chiến tranh lạnh: Vụ ám sát Diệm và John F. Kennedy), do Cemetery Dance xuất bản năm 1999, đã cho biết như sau:
Năm 1958, khi Diệm-Nhu tái lập hệ thống lưu thông thuốc phiện về Sài Gòn, Bonaventure Francisci khó có thể hoan hỉ hơn vì nó đã làm sống lại nghề cũ của ông ta là vận chuyển thuốc phiện từ gốc sản xuất ở Lào đi thẳng về miền Nam Việt Nam bằng một phi đội máy may riêng.
Sau đó, Francisci dự tính sẽ kiếm được nhiều tiền hơn từ việc bán thuốc phiện trực tiếp cho hàng trăm ổ hút và hàng chục ngàn bệnh nhân nghiện ma túy ở Sài Gòn. Trong khi việc sản xuất thuốc phiện ở các nơi khác trên thế giới, đặc biệt là Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ, ngày càng phức tạp và khó khăn. Tình hình này chỉ làm lợi thêm cho Guerini bởi vì nó gia tăng thị phần ma túy của ông ta.
Sau đó Francisci và Nhu đã thực hiện một hợp đồng phân phối cơ bản. Francisci sẽ vận chuyển thuốc phiện đến Sài Gòn cho các ổ hút của Nhu nhưng hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sài Gòn. Tại đây, thuốc phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille. Tại Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến có chất lượng cao để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ như Santos Trafficante, Carlos Marcello, và Sam Giancana.
Về căn bản, các tập đoàn buôn lậu ma túy, mafia Mỹ, và ngụy quyền Ngô Đình Diệm đã biến thành các đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma túy toàn cầu. Tiền tỷ chảy vào túi các bên liên quan.
Trong bài phê bình “Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm 1975” của tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan ngụy, bạn thân của tướng ngụy Nguyễn Chánh Thi, đã phê phán gay gắt:
“Trong thời Chiến tranh Việt Nam, báo chí Mỹ phanh phui là Thiệu cùng với đàn em là Trung tướng Đặng văn Quang, đã buôn bán Bạch phiến làm giàu. Thứ trùm ma túy như Thiệu thì làm gì mà có chuyện yêu nước thương dân. Gặp thời loạn lạc, làm cai thầu chống Cộng, Thiệu chỉ có một việc duy nhất là vơ vét cho đầy túi tham mà thôi. Đến khi quốc gia hưng vong thì lòi ngay ra bản chất ti tiện hèn nhát, đúng là có ‘cháy nhà mới lòi mặt chuột’ Nguyễn văn Thiệu.
Phó tổng thống Nguyễn cao Kỳ cũng chẳng có gì khá hơn, trong cuốn hồi ký ” Việt Nam máu lửa quê hương tôi”, cựu thiếu tướng Đỗ Mậu đã chỉ ra rằng ông Kỳ và bà chị ruột là Nguyễn thị Lý đã buôn lậu thuốc phiện từ Lào về bán. Đúng là hai gương mặt cai thầu chống Cộng do Mỹ dựng lên là Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ chẵng có tay nào sáng sủa, toàn là thứ buôn lậu ma túy. Phải đợi tới những ngày cuối tháng 4/1975 mới thấy rõ tư cách hèn kém của hai tay này. Bỏ quân leo phi cơ mà chạy không một chút liêm sỉ và danh dự của người lãnh đạo.”
Lối sống đồi trụy, thác loạn
Ngoài sự tê liệt vì tệ nạn buôn lậu ma túy, xã hội trong những vùng tạm chiếm còn bị tê liệt bởi lối sống sa đọa và đồi trụy. Khoảng 7 triệu lượt người Mỹ và cao điểm gần 60 vạn quân viễn chinh Mỹ ở trong vùng tạm chiếm, đã tạo ra các nhu cầu và văn hóa tiêu dùng mới.
Để “giúp vui” cho quân Mỹ, Mỹ-Thiệu cho mở cửa hàng loạt phòng tắm hơi, hộp đêm, nhất là ổ mại dâm, nhan nhản khắp Sài Gòn, đặc biệt là xung quanh các cư xá của người Mỹ. Thị trường mại dâm ở Sài Gòn trước năm 1975 được người dân quen miệng gọi là “chợ heo”, được Mỹ-Thiệu công khai hóa và hợp pháp hóa. Năm 1966, sau khi từ Sài Gòn về Mỹ, thượng nghị sĩ William Fulbright nhận xét: “Mỹ đã biến Sài Gòn thành một ổ mại dâm”.
Lối sống đồi trụy, thác loạn, không chỉ là hậu quả của sự có mặt của hàng chục vạn lính viễn chinh nước ngoài trong túi nhiều đô la Mỹ, mà theo một số người, nó còn nằm trong chủ trương ngầm nhằm đồi trụy hóa thanh niên miền Nam, làm cho giới trẻ quên đi hoàn cảnh đất nước đang bị xâm lược, không màng tới nghĩa vụ đối với giống nòi.
Từ đó xuất hiện ở Sài Gòn một dòng văn học khiêu dâm trong đó các tác giả chuyên khai thác thị hiếu thấp hèn của người đọc, đề cao “phần con” hơn “phần người”, công khai cổ vũ cho những lối sống bệnh hoạn, biến thái.
Bên cạnh những “phim con heo” (các danh từ “chợ heo”, “phim heo” này đều có nguồn gốc từ đây) bán công khai ngoài phố, báo chuyên in hình phụ nữ khỏa thân (Playboy, Penthouse, Nude….) bày bán công khai trên vỉa hè các đường Lê Lợi, Công Lý…. ở ngay trung tâm thành phố, là những tiểu thuyết “người lớn” của những “chuyên gia” viết truyện khiêu dâm như Chu Tử, Lê Xuyên, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Thụy Vũ….
Những vấn đề nói trên đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống văn hóa – tinh thần của người dân. Sự sa đọa, trụy lạc trong xã hội đã gây ra nhiều thảm cảnh gia đình và hạnh phúc đổ vỡ, nhiều câu chuyện bi đát thương tâm. Qua các báo hằng ngày, không ngày nào là không có những vụ án mạng vì tình, những vụ tự tử, nhảy lầu, nhảy sông, đâm chém, bắn giết lẫn nhau vì giành nhau một người đẹp, kể cả trong quân đội ở các chức vị cao nhất, một ví dụ là “phó tổng thống” Nguyễn Cao Kỳ thời đó, do “nổi tiếng” với thái độ ngang ngược chĩa súng cướp bồ nhí của đàn em nên bị mọi người gọi là “Kỳ Cao Bồi”.
Tiến sĩ James Carter, giáo sư sử học tại Đại học Drew (Mỹ), trong sách Inventing Vietnam: The United States and State Building, 1954-1968, do NXB Đại học Cambridge (Anh) phát hành năm 2008, đã cho biết: “Chiến tranh cũng làm 100.000 thường dân thương vong mỗi năm. Dịch bệnh tăng vọt; dịch tả tăng từ hàng trăm lên đến 20.000 vụ. Khoảng từ 30.000 đến 50.000 người cụt chân tay chờ được lắp chân giả. Và chính phủ Sài Gòn chỉ dành chưa đầy 1% ngân sách cho dịch vụ y tế.”
Có lẽ từ những hiện thực trên mà sử gia Stanley I. Kutler trong Encyclopedia of The Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) do Simon & Schuster McMillan xuất bản năm 1996, đây là cuốn sách viết theo quan điểm và tuyên truyền chính thức và công khai của chính phủ Mỹ, đã phải viết về xã hội ở các đô thị miền Nam dưới thời Nixon như sau:
“Đối với hầu hết người dân trong các thành phố, đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn. Vào năm 1972, có vào khoảng 800 ngàn trẻ em mồ côi lang thang trên các vỉa hè trong các đường phố ở Sài Gòn và một số thành phố khác, sống bằng nghề ăn mày, đánh giày, rửa xe, móc túi và dẫn khách làng chơi về cho chính chị gái và mẹ của chúng. Có vào khoảng 500 ngàn gái mại dâm và gái bán ba, trong đó có nhiều người là bà vợ của anh em quân nhân trong quân đội Nam Việt Nam. Họ phải làm cái việc ô nhục này để phụ cấp đồng lương chết đói của ông chồng không đủ nuôi cho một người. Ngoài ra, lại còn có khoảng 2 đến 3 triệu người, trong đó có những người già cả hay thương phế binh của quân đội Nam Việt Nam không thể nào tìm được công ăn việc làm. Vào năm 1974, tình trạng đói đã lan rộng ra nhiều nơi ở miền Nam. Theo cuộc thăm dò của anh em sinh viên Ca-tô thì ngay trong khu vực giàu có nhất trong thành phố Sàigòn, chỉ có 1/5 tổng số gia đình có đủ ăn, một nửa tổng số gia đình cho là có thể lo được mỗi ngày một bữa cơm và một bữa cháo bằng thứ gạo rẻ tiền nhất. Các gia đình còn lại đều đói. Đói và thất nghiệp đưa đến tội ác, tự tử và biểu tình trong khắp các vùng do chính quyền Nam Việt Nam quản lý.”

Banner quảng cáo “Đại nhạc hội xuân vùng 4 chiến thuật” ở Sài Gòn (1971).
Theo Thiếu Long Texas
Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2024
Đằng sau 'hiện tượng mạng' Thích Minh Tuệ
Người nổi tiếng bất đắc dĩ
Thích Minh Tuệ được gọi là “thầy”, là “nhà sư” trên mạng xã hội.
Tuy nhiên, ông không phải là người tu hành đúng nghĩa. Điều này đã được Thượng tọa Thích Đức Thiện, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, khẳng định vào ngày 16/5: "Sư Thích Minh Tuệ" không phải là tu sĩ Phật giáo, không tu tập và không là nhân sự của bất cứ ngôi chùa, cơ sở tự viện nào của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
“Sư Thích Minh Tuệ” chính là ông Lê Anh Tú, 43 tuổi, quê gốc ở tỉnh Hà Tĩnh, thường trú tại huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai, từng là nhân viên đo đạc địa chính. Người này cũng không tự nhận mình là “thầy”, nói rằng ông đang “tập học” theo lời dạy của Đức Phật.
Thực ra, Thích Minh Tuệ cũng không làm điều gì quá dị thường. Ông chỉ đang “tự tu” theo cách thức hạnh đầu đà (khổ hạnh). Rất nhiều nhà tu hành cũng đang thực hành hạnh đầu đà như vậy - mặc áo vá, khất thực, ngày ăn một bữa, tối ngủ dưới gốc cây hoặc nơi nhà hoang, nghĩa địa, không nhận tiền cúng dường, khước từ mọi tiện nghi…
Thích Minh Tuệ đã thực hành hạnh đầu đà được 6 năm và 4 lần đi bộ từ Nam ra Bắc rồi quay lại. Thiếu vắng các youtuber, tiktoker, facebooker nên các chuyến “chân trần xuyên Việt” của ông trước đây không gây ra sự ồn ào nào. Lần này, chính ông cũng nói rằng bản thân không chủ động lôi kéo sự chú ý của dân chúng. Khi có người xin đi theo về Hà Giang, ông đáp: "Nếu thấy an lạc, hạnh phúc thì cứ đi, con không mời cũng không xua đuổi ai cả”.
Trong giáo pháp của Đức Phật có 8 vạn 4 ngàn pháp môn tu. Thích Minh Tuệ chọn cách hạnh đầu đà là quyền lựa chọn riêng của ông, những người khác chọn pháp tu khác cũng là quyền của họ. Không có sự đúng - sai, hơn - kém ở đây.
Để lôi kéo người dùng mạng vì mục đích bán hàng, muốn được chú ý hay do bị chi phối bởi động cơ nào đó, một số youtuber, tiktoker, facebooker đã làm quá lên về Thích Minh Tuệ, kích động tính hiếu kỳ của mọi người, nhất là giới trẻ. Hùa theo đám đông, chạy theo trào lưu, nhiều người đón lõng “sư thầy đi bộ”, rồng rắn đi theo cả một quãng đường dài, xô đẩy, tranh chỗ đứng gần ông để chụp ảnh, quay phim… Cảnh tượng lộn xộn đó gây phản cảm và phản tác dụng đối với mong muốn của chính Thích Minh Tuệ.
Không bỏ lỡ cơ hội, những thế lực thù địch đã lợi dụng “hiện tượng Thích Minh Tuệ” để chống phá chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trên mạng xã hội.
Mục đích đầu tiên mà thế lực thù địch nhắm tới là chia rẽ các tôn giáo với Đảng, Nhà nước. Chúng gieo rắc, thổi phồng mâu thuẫn, tranh chấp để khẳng định rằng tôn giáo và chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam không thể song hành; đánh tráo khái niệm bằng cách tuyệt đối hóa quyền tự do tín ngưỡng - tôn giáo không chịu bất cứ sự ràng buộc, chế tài xử phạt nào; bịa đặt rằng Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương “phân biệt đối xử, đàn áp tôn giáo”.
Trong vụ việc Thích Minh Tuệ, nếu đám đông quây quanh “sư thầy đi bộ” gây lộn xộn và cơ quan chức năng phải can thiệp để đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông thì các thế lực thù địch sẽ rêu rao: “Công an cản trở nhà sư hành đạo!”.
Mục đích thứ hai của thế lực thù địch là chia rẽ giữa người theo đạo và người không theo đạo, chia rẽ các tôn giáo với nhau, gây mâu thuẫn bên trong từng tôn giáo nhằm làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc của chúng ta.
Trong vụ việc Thích Minh Tuệ, trên mạng xã hội đã xuất hiện những luận điệu gây mâu thuẫn giữa Phật giáo và Công giáo, bài xích Giáo hội Phật giáo Việt Nam, so sánh thiếu thiện chí giữa “nhà sư đi bộ” với hàng chục nghìn tăng, ni “đang hưởng lạc trong chùa to, cổng kín”, coi khổ hạnh là chánh pháp, là pháp tu duy nhất đúng.
Mục đích thứ ba là cổ xúy, “anh hùng hóa” các hiện tượng mạng xã hội theo hướng đối lập với những giá trị truyền thống.
Trong vụ việc Thích Minh Tuệ, bên cạnh sự nồng nhiệt thái quá của mạng xã hội thì các thế lực chống phá bên ngoài đang ra sức tô vẽ rằng ông này “gợi nhớ hình ảnh của Đức Phật năm xưa”, rêu rao rằng hiện nay người dân Việt Nam đã bắt đầu thấy cần thiết phải có "Đức Phật” trong trái tim hay trong ngôi nhà của mình.
Tự do tôn giáo, không phải “tự do lợi dụng tôn giáo”
Việt Nam thuộc nhóm 12 quốc gia trên thế giới và 6 quốc gia ở khu vực châu Á -Thái Bình Dương có mức độ đa dạng tôn giáo rất cao. Đây không phải là sự tự đánh giá của Chính phủ ta mà là kết quả khảo sát của Viện Diễn đàn Pew có trụ sở ở Mỹ.
Còn theo Ban Tôn giáo Chính phủ, nước ta có 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số).
Đạo Phật là tôn giáo lớn nhất, có hơn 14 triệu tín đồ, sở hữu 18.544 ngôi chùa với gần 55.000 tăng, ni đang tu hành. Công giáo xếp thứ hai với hơn 7 triệu tín đồ và 7.771 cơ sở thờ tự. Đạo Tin Lành và đạo Cao Đài đứng thứ ba và thứ tư về số lượng tín đồ.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật và người dân được tự do lựa chọn tôn giáo, lựa chọn tín ngưỡng hoặc không tín ngưỡng.
Năm 2003, Nhà nước ta công nhận 6 tôn giáo với 15 tổ chức, 17 triệu tín đồ, khoảng 20.000 cơ sở thờ tự; 34.000 chức sắc, 78.000 chức việc. Đến năm 2022, Nhà nước ta công nhận 16 tôn giáo với 43 tổ chức, 26,5 triệu tín đồ, hơn 53.000 chức sắc, khoảng 135.000 chức việc; hơn 29.000 cơ sở thờ tự.
Trong số 16 tôn giáo được Nhà nước chính thức công nhận thì có tới 9 tôn giáo từ nước ngoài được du nhập vào Việt Nam (Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Bà La Môn giáo, Hồi giáo…).
Nhà nước bảo đảm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo được thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo, mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo. Cả nước hiện có 62 cơ sở đào tạo tôn giáo tại các địa phương.
Luật pháp Việt Nam bảo vệ quyền tự do tôn giáo nhưng cũng nghiêm khắc xử lý các hành vi lợi dụng tôn giáo.
Điều 24 của Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định: "Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật".
Còn Điều 6 của Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016 quy định các hành vi bị nghiêm cấm: "Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi".
Những ngày này, đồng bào Phật giáo trên cả nước cũng đang hân hoan đón mừng đại lễ Phật đản hằng năm. Đây là một trong những minh chứng về việc Đảng, Nhà nước ta luôn đảm bảo đưa những quy định của pháp luật về quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng vào thực tế đời sống, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa những vi phạm pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng cũng sẽ phải bị xử lý nghiêm.